23 tháng 9 2011

Bạo loạn Quỳnh Lưu - Nghệ An 1956

Ngay sau khi hòa bình được lập lại, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khôi phục kinh tế và hoàn thành cải cách ruộng đất.
Ngay từ những ngày đầu được giải phóng, cùng với quá trình khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân, nhiệm vụ cấp bách của miền Bắc là tiếp quản những vùng địch tạm chiếm theo quy định của Hiệp định Giơnevơ.
Việc tiếp quản diễn ra hết sức khó khăn, phức tạp bởi Pháp và tay sai đã dùng mọi âm mưu, thủ đoạn để chống phá, làm rối loạn xã hội và mất trật tự an ninh trước khi chúng rút quân. ở nhiều địa phương, Pháp và tay sai đã tung tin bịa đặt để gây hoang mang, kích động dân chúng, thúc ép đồng bào theo đạo Thiên Chúa rời bỏ nhà cửa, ruộng vườn di cư vào Nam.
Có nơi chúng đã cung cấp tiền của, phương tiện cho bọn phản động gây rối trật tự trị an như ở Bùi Chu (Nam Định), Phát Diệm (Ninh Bình), gây bạo loạn ở Ba Làng (Thanh Hóa), Quỳnh Lưu (Nghệ An). 

DẸP BẠO LOẠN Ở QUỲNH LƯU

LÊ VĂN HỐI

          Cùng với việc mở chiến dịch “tố cộng” ở miền Nam, Mỹ-Diệm chỉ huy bọn phản động đội lốt tôn giáo lợi dụng tự do tín ngưỡng xuyên tạc chủ trương sửa sai cải cách ruộng đất của ta, kích động giáo dân gây bạo loạn ở Quỳnh Lưu. Chúng lừa bịp cưỡng bức giáo dân từ Quảng Bình, Hà Tĩnh ra, từ Thanh Hóa vào, tụ tập ở nhà thờ Quỳnh Yên mấy chục nghìn người ăn uống bừa bãi hết đợt này đến đợt khác hàng mấy tháng trời, ảnh hưởng đến trật tự trị an và sản xuất.

          Nghiêm trọng hơn là chúng vu khống, khiêu khích, bắt giữ tổ công tác sửa sai của trung đoàn 269 Quân khu 4, giam họ trong nhà thờ Quỳnh Yên. Chính quyền ta đã nhiều lần giải thích, thuyết phục, nhưng chúng vẫn ngoan cố, không chịu trả tự do cho tổ công tác. Trước tình hình nghiêm trọng đó, Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh cho sư đoàn 324 đang ở Thanh Hóa, cử ngay lực lượng hành quân cấp tốc vào Quỳnh Lưu cùng với lực lượng địa phương của Quân khu 4 giải quyết vụ Quỳnh Yên.

          Trung đoàn 93 đang tiến hành huấn luyện ở khu vực tây cầu Hang thuộc huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa được giao nhiệm vụ này. Phương châm chỉ đạo hành động là lấy tuyên truyền vận động quần chúng lao động, làm cho họ hiểu rõ chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, phân rõ đúng sai, phân rõ ranh giới giữa việc đạo và việc đời, phân hóa cô lập bọn đầu sỏ phản động. Không được nổ súng khi làm nhiệm vụ chống biểu tình. Vì vậy, chỉ cán bộ tiểu đoàn trở lên mới được mang súng ngắn tự vệ, còn cán bộ từ đại đội đến chiến sĩ chỉ được mang gậy và dây thừng, lương thực, thực phẩm và trang bị cá nhân. Toàn bộ súng đạn và trang bị khác để lại nơi đóng quân có người trông coi.

          Đoàn ô tô của Bộ chở trung đoàn 93 từ Tĩnh Gia vào Quỳnh Lưu. Ban đầu anh em không thông suốt lệnh không được nổ súng với lý lẽ “kẻ nào nói xấu Đảng, chống lại chính quyền là phải bị trừng trị”. Phải giải thích nhiều lần, anh em mới tạm thông.

          Hàng ngày, chính quyền ta dùng loa truyền thanh giải thích chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta, nhưng chúng không những không trả tự do cho đội công tác mà còn huy động hàng nghìn giáo dân từ các hướng: Quỳnh Thanh, Quỳnh Yên lên, Nghi Lộc, Diễn Châu ra tập trung ở thị trấn Cầu Giát với ý đồ gây bạo loạn đập phá các cơ quan, cửa hàng và kho thóc của huyện Quỳnh Lưu. Mưu đồ của Diệm là lấy Quỳnh Yên, Quỳnh Lưu làm thí điểm. Nếu thành công sẽ gây ra nhiều nơi khác trên toàn miền Bắc.

          Trung đoàn 93 được giao nhiệm vụ giải tán các cánh quân biểu tình, không cho chúng hợp điểm tại Cầu Giát. Tiểu đoàn 5 chốt giữ ở bắc cầu thị trấn Cầu Giát, tiểu đoàn 6 chốt ở ngã ba xã Quỳnh Bá, cách nhà thờ Quỳnh Yên khoảng 1000m, tiểu đoàn 7 chốt giữ đường ở xã Quỳnh Đôi, giáp với xã Quỳnh Thanh là xã công giáo toàn tòng.

          Đồng bào bị chúng cưỡng ép từ Quỳnh Yên lên đông hơn nghìn người, đến cổng chắn đường (ba-ri-e) ở ngã ba Quỳnh Bá bị đại đội 6 chặn lại. Những tên phản động trà trộn trong đó, ngoan cố tràn qua cổng chắn, dùng gạch đá ném vào bộ đội ta. Chính trị viên Quang bị trúng vào đầu chảy máu. Tiểu đoàn 6 tăng cường thêm lực lượng đang ở trong các nhà dân quanh đó, dùng kèn xung phong uy hiếp chúng. Vừa nghe tiếng kèn xung phong, bọn phản động đã hoảng sợ, chạy tán loạn về lại Quỳnh Yên. Ta bắt hơn 10 tên đầu sỏ hung hăng nhất giao cho chính quyền địa phương xử lý.

          Ở hướng Quỳnh Thanh, khi cánh quân của chúng đến Quỳnh Đôi, những tên chống đối vẫn ngoan cố tràn qua cổng chắn do tiểu đoàn 7 chốt giữ. Tổ súng máy bố trí trên gò bắn chỉ thiên uy hiếp. Bọn chúng đánh trả, một trung đội trưởng và một  chiến sĩ ta hy sinh. Ta bắn uy hiếp dữ dội, chúng hoảng sợ chạy trở lại Quỳnh Thanh.

          Thế là hai cánh đi biểu tình từ Quỳnh Yên và Quỳnh Thanh lên đều bị giải tán. Còn cánh từ Diễn Châu ra đến nam cầu Giát bị lực lượng tiểu đoàn 5 dùng vòi rồng nước chặn lại. Nhưng những tên chống đối vẫn tràn qua cầu, vừa đi vừa hô khẩu hiệu phản động. Đến thị trấn Quỳnh Lưu, được tin hai cánh kia bị giải tán, không hợp điểm được, chúng kéo những người nhẹ dạ, cả tin đi một vòng trong thị trấn rồi tự động giải tán.

          Sau một tuần, được tin của cơ sở ta trong nhà thờ cho biết là chúng dự định thủ tiêu đội công tác, Bộ Tổng tham mưu ra lệnh phải giải thoát tổ công tác, không cho chúng ám hại. Ngay trong đêm đó, trung đoàn 93 tổ chức tập kích, bố trí 3 tiểu đoàn thành 3 mũi tấn công. 3 giờ sáng, pháo hiệu tấn công phát lên, các tổ súng máy cả 3 hướng quanh nhà thờ đồng loạt bắn chỉ thiên uy hiếp, đồng thời lực lượng xung kích của ta nhanh chóng đột nhập thẳng vào nơi giam giữ, giải thoát được tổ công tác của ta an toàn. Trung đoàn 93 bắt giữ một số tên phản động cầm đầu giao cho chính quyền khu 4 xử lý. Số giáo dân các nơi bị lừa gạt, o ép được ta giải thích quay trở về quê.

          Do bị xuyên tạc, giáo dân khu vực quanh nhà thờ vẫn e ngại tiếp xúc với bộ đội ta nên các đơn vị vẫn phải căng lều bạt màn chiếu ăn ở ngoài trời, vừa làm công tác tuyên truyền giáo dục, vừa vận động nhân dân cùng làm sạch môi trường khu vực quanh nhà thờ Quỳnh Yên mà mấy tháng trước đó bọn chúng ăn uống phóng uế bừa bãi.

          Hai tuần sau, trung đoàn 93 được lệnh hành quân từ Quỳnh Lưu về Yên Thành. Trung đoàn 269 (Quân khu 4) tiếp tục làm công tác dân vận ở Quỳnh Lưu. Sau vụ Quỳnh Yên, sư đoàn bộ 324 và các đơn vị trực thuộc lần lượt di chuyển từ Thanh Hóa vào Nghệ An làm nhiệm vụ phòng thủ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu theo kế hoạch chiến lược của Bộ

Trích QĐND, ngày 25/10/04

 Giáo dân Quỳnh lưu nổi loạn, năm 1956, do Phan Quang Đông đao diễn

...Ai đã từng ở Huế cũng đều biết vị trí của tòa Đại Biểu Chính Phủ nằm trên đường Lê Lợi, đối diện với ngôi trường Luật của Viện Đại Học Huế. Sát bên bờ sông Hương cạnh tòa Đại Biểu. Mặt sau của Bộ Chỉ Huy Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn có một ngôi biệt thự trang nhã,....chính là Bộ Chỉ Huy một Cơ Quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, chỉ huy và điều khiển những Điệp Vụ miền Bắc với nhiệm vụ phá rối chính trị, tổ chức và phát động những phong trào nhân dân nổi dậy chống đối chính quyền Hà Nội....

....Người này thoạt nhìn khuôn mặt khó đoán được tuổi tác là bao nhiêu 30, 35, 40 tuổi ?Nhỏ người dáng dấp thư sinh, nói giọng khó nghe, xuất phát từ Nghệ An, Hà Tĩnh.....chính là ông Phan Quan Đông, người chỉ huy một cơ quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, với những Điệp Vụ phía Bắc vĩ tuyến 17....một bông Hồng hiếm quý của Tình Báo miền Nam...

....Đạo diễn chính vụ nhân dân Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền Miền Bắc vào năm 1956 là một thí dụ điển hình công tác và nhiệm vụ của cơ quan này:
Vào năm 1955, tại làng Phú Cam, trong khu vườn rộng nhà ông Nguyễn Văn Đông Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Trị, ông Nguyễn văn Đông đã cất một ngôi nhà tranh cho một người bạn thân trú ngụ. Người nầy thoạt nhìn khuôn mặt khó đoán được tuổi tác là bao nhiêu 30, 35, 40 tuổi? Nhỏ người, dáng dấp thư sinh, nhưng nét mặt rất thông minh, nói giọng khó nghe, xuất phát từ Nghệ An, Hà Tĩnh. Ít ai biết được chàng thư sinh nầy đi giờ nào và về giờ nào, nếu có tình cờ thấy anh ta đang đạp chiếc xe đạp lọc cọc đi làm thì cũng nghỉ rằng anh ta chỉ là một thầy giáo hay là một công chức nghèo. Chàng thư sinh này chính là ông Phan Quang Đông người chỉ huy một cơ quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia với những Điệp Vụ phía bắc vĩ tuyến 17. Ông ta là chủ nhân của ngôi biệt thư màu hồng, một nhân vật thượng đẳng, một Bông Hồng hiếm quí của Tình Báo miền Nam.
(Biến Động Miền Trung - trang 6 – 7 - Liên Thành)

Đây là thông tin từ nhà văng Phạm Viết Đào MỘT VÀI THÔNG TIN VỀ CUỘC NỔI DẬY NĂM 1956 TẠI QUỲNH LƯU NGHỆ AN
Trích:
Sau cái gọi là Nghị quyết sửa sai của đa?ng CSVN về những đợt cải cách ruộng đất, các nạn nhân đã tìm những cán bộ thanh toán món nợ truyền kiếp. Các đa?ng viên CS trung kiên được thả về từ nhà tù, được khôi phục quyền hành, khôi phục đa?ng tịch, liền tìm ngay các đồng chí đã tố sai để trả thù. Do đó, tình trạng xung đột, giết chóc giữa đa?ng viên cũ và đa?ng viên mới lan rộng khắp mọi nơi. Uy tín của Đảng bị suy sụp, cán bộ hoang man, lo sợ tột độ.

Ở nông thôn, các đa?ng viên đi họp phải mang búa theo để thảo luận với nhau. Những địa chủ được tha về, thấy tình trạng làng xóm bất ổn như vậy, vội vàng chạy ra thành phố ở nhờ các gia đình tiểu tư sản hồi kháng chiến đã trú ngụ ở nhà mình. Các bần cố nông trót nghe lời đa?ng tố điêu nay bị sợ rạch mồm, cắt lưỡi, cũng vội vàng chạy ra thành phố để đạp xích lô và đi ở thuệ. Vì vậy, số dân ở Hà Nội, Nam Ðịnh đột nhiên tăng lên gấp bội và không khí căm thù ở nông thôn lan ra thành phố, ảnh hưởng đến giới công nhân, tiểu tư sản, sinh viên và trí thức. Nhân dân tỉnh Nghệ An, gồm đủ mọi thành phần giai cấp ở các xã Quang Trung, Tân Nho, Diễn Tân, Vạn Kim, Diễn Ðức, Diễn Ðông, Diễn Nguyên, Minh Châu, Ðức Vinh, Hồng Thăng, Ðại Gia, Yên Trung đã mở 1 đại hội để tố cáo những chính sách sai lầm của chính quyền. Ban tổ chức đại hội còn mời luôn cả cán bộ VC thuộc cấp tỉnh và huyện đến tham dự để chứng minh tinh thần đấu tranh cho tự do của nhân dân.

Sau nhiều giờ thảo luận, đại hội đã đồng thanh lập bản kiến nghị nguyên văn như sau :
- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi những vị linh mục chánh sở và tất cả những vị giáo sĩ bị bắt bớ giam cầm.
- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi xác các vị linh mục đã bị hành quyết và của những vị đã bị thủ tiêụ
- Yêu cầu trả lại những tài sản của địa phận, của thánh đường, của Ðức Mẹ đã bị chính quyền tịch thu hoăc xung công.
- Yêu cầu đền bồi thanh danh của các giáo sĩ đã bị nhục mạ và danh dự của các giáo hữu đã bị vu khống.

Cán bộ chính quyền rất căm tức những lời kết án của dân chúng, lúc đầu họ nhất định không ký tên, nhưng với áp lực của hàng ngàn người, họ bắt buộc phải ký vào quyết nghị. Ban tổ chức đã gởi bản quyết nghị này đến 4 nơi: Tòa thánh La Mã (qua trung gian của Ðức Khâm sứ Dooley), Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến, HồChíMinh và gởi đến chính quyền quốc gia miền Nam. Phía CSVN đã tìm đủ mọi cách ngăn chặn bản quyết nghị đến tay Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến.

Dân chúng đã dùng ngay chính sách sửa sai của Chính phủ để đòi lại chồng con đã bị giết, tài sản đã bị cưỡng đoạt và đòi được di chuyển tự do vào Nam như đã cam kết trong Hiệp định Genevơ.

Giữa lúc đó, được tin chiều ngày 9/11/1956, Ủy Ban Kiểm Soát Ðình Chiến sẽ đi qua Cầu Giát để lên Hà Nội, hàng ngàn người đã kéo ra đường số 1 chờ đợị. Ðồng bào đã góp đơn lại giao cho 6 thanh niên đại diện đưa thư. Mấy ngàn đồng bào đã nằm ngay trên đường để chặn xe lạị. 6 thanh niên đã đưa cho viên sĩ quan Ấn Ðộ trong Ủy Ban mấy vạn lá thư đựng trong bao bố. Viên sĩ quan này cho biết sẽ trình lại cấp trên và trả lời vào ngày thứ Bảy trong tuần. 

Sau đó, ngày 10/11/1956, khoảng 10.000 nông dân đã mở đại hội lần thứ hai tại xã Cẩm Trường để bàn thảo về ngày thứ Bảy. Nhưng ngay lúc đó, Chính quyền đã điều động 2 đại đội chủ lực và 1 đại đội công an võ trang huyện Diên Châu về xã Cẩm Trường để giải tán đại hội nông dân. Bạo động đã xảy rạ. Tiếng súng và lựu đạn nổ vang trời. Mặc dù tay không nhưng khí thế quần chúng quá mạnh, những người phía sau đã tràn lên thay cho những người gục ngã phía trước.

Cuối cùng, dân chúng đã bao vây đồn bộ đội, công an vào giữa đêm hôm dó. Chính quyền đưa thêm 2 trung đoàn về bao vây 10.000 nông dân tại xã Cẩm Trường. Dưới cơn mưa phùn lất phất cuối đông, cảnh tượng bi hùng đã diễn ra ở 1 trận địa giữa 10.000 nông dân và 2 vòng trong ngoài đầy những công an và bộ đội. Tờ mờ sáng này 11/11/56, các bà mẹ đã đánh trống, mõ kêu gọi dân chúng quanh vùng đến tiếp cứu. Xã Diễn Châu như bị động đất. Rồi 30.000 nông dân kéo đến vây phía ngoài 2 trung đoàn chính quy…Cuộc nổi dậy bộc phát quá lớn, quá mau, đã đi ra ngoài sự tiên liệu của cả 2 bên. Chính quyền đã tỏ ra rất lo lắng biến cố này vì Nghệ An là quê quán của ông HồChíMinh; chưa biết cách giải quyết thế nào để gỡ thể diện cho mình và Đa?ng. Chính quyền cũng tìm cách liên lạc với Giám mục Trần Hữu Ðức nhờ ông giải quyết, nhưng ông đã trả lời:Tôi không biết về vấn đề chính trị, vì tôi là 1 nhà tu hành. Lúc bấy giờ, phía dân chúng đã có 1 số lượng vũ khí đáng kể, tịch thu được từ bộ đội. Chưa bao giờ 1 cuộc nổi dậy ở miền Bắc lại có đủ tất cả thành phần dân chúng, kể cả các đa?ng viên CS.

Ðêm 11 rạng ngay 12/11/1956, 1 số nghĩa quân lén trở về Quỳnh Lưu để tổ chức biểu tình yểm trợ cho dân quân xã Diễn Châu. Ðêm hôm đó, 3.000 thanh niên các xã Do Xuyên, Ba Làng và Nông Cống (tỉnh Thanh Hóa) đã kéo vào yểm trợ nghĩa quân. 4g sáng cùng ngày, 1 Ủy Ban Biểu Dương Lực Lượng Nông Dân Quỳnh Lưu và Ủy Ban Tiếp Tế Nghĩa Quân được thành lập. Phụ nữ, trẻ em đã mang gạo, thực phẩm đến xã Cẩm Trường, nơi cuộc đấu tranh đã bước vào ngày thứ 3.

Rạng ngày 13/11/1956, 1 cuộc biểutình lớn với sự tham gia của gần 100.000 đồng bào tỉnh Nghệ An. Bài hát Quỳnh Lưu đứng dậy đã được truyền đi khắp nơi, hoà với những đợt trống, mõ vang lên liên tục :

Anh đi giết giặc lập công
Con thơ em gửi mẹ bồng
Ðể theo anh ra tiền tuyến
Ngày mai giải phóng
Tha hồ ta bế ta bồng con ta

Cuộc biểutình đã tuần hành tiến về Ty công an Ngệ An, hô thật to những khẩu hiệu: Lương giáo đoàn kết chặt chẽ sau lưng các nghĩa quân… Tinh thần Quỳnh Lưu bất diệt... Công an tỉnh lẩn trốn từ lâu trước khí thế này. Dân chúng thi nhau nhảy lên nóc Ty công an, xé tan cờ đỏ sao vàng, đạp vỡ ảnh HCM và các lãnh tụ CS quốc tế…

Trước tình hình này, Chính phủ ra lịnh cho Văn Tiến Dũng điều động Sư đoàn 304 từ Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Ðồng Hới về bao vây nghĩa quân. Sư đoàn này quy tụ nhiều bộ đội miền Nam tập kết mà Hồ Chí Minh muốn sử dụng, thay vì dùng bộ đội sinh quán ở miền Trung hoặc miền Bắc, để có gì thì đổ cho binh lính miền Nam nóng tính này.Trận địa tại xã Cẩm Trường đã lên đến 5 vòng đai giữa dân quân và quân chính phủ. Buổi chiều cùng ngày, nghe tin dân quân xã Cẩm Trường bị Sư đoàn 304 vây, gần hàng chục ngàn người đã tiến về xã Cẩm Trường để tiếp ứng cứu. Vòng đai chiến trận đã tăng lên lớp thứ 6. Buổi tối ngày 13/11/1956, hơn 20.000 nông dân từ Thanh Hóa lại kéo vào tiếp viện, mang theo đầy đủ lương thực tính kế trường kỳ đấu tranh.

Ngày 14/11/1956, Văn Tiến Dũng huy động thêm Sư đoàn 312 vào trận địa quyết tiêu diệt nhân dân Quỳnh Lưu. Trước bạo lực đó, nông dân vẫn cứ quyết tâm tử chiến để bảo vệ căn cứ. Lịnh của ban chỉ đạo nghĩa quan được truyền đi:Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng... Nhưng vì vũ khí quá thô sơ, nghĩa quân phải rút vào rừng sâu. Sau khi trận chiến kết thúc, quân đội VC đã xông vào các làng Thanh Dạ, Song Ngọc, Cẩm Trường bắt tất cả già trẻ lớn bé giải đi. Họ tra khảo từng người để tìm ra ban chỉ đạo đấu tranh nhưng vô hiệu, vì bất cứ ai, kể cả các em thiếu nhi đều tự xưng là người lãnh đạo cuộc nổi dậy này. Không bắt được ai, chính quyền đành thả bà con ra về, nhưng chính quyền tính kế bắt đi Linh mục Hậu và Linh mục Ðôn của 2 xứ Cẩm Trường và Song Ngọc. Dù 2 vị này đã nói, Chúng tôi là nhà tu hành, chúng tôi không biết gì đến việc nhân dân, nhưng cũng bị công an kéo lê lên xe giải về Hà Nội.

Chính quyền bắt 2 vị linh mục phải lên đài phát thanh đổ lỗi cho giáo dân và nông dân, nhưng 2 vị không bằng lòng. Chính quyền đe dọa nếu không tuyên bố như vậy thì sẽ giáng tội cho 2 vị là những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa phảnđộng này. Họ mang hình ảnh Linh mục Tấn bị thủ tiêu ở Phủ Quỳ ra dọa nạt. Cuối cùng, 2 vị phải tuyên bố ngược lại sự thật.

Dù nhà cầm quyền, vẫn cố tình che dấu, xuyên tạc…cuộc nổi dậy của nhân dân Quỳnh Lưu cho đến ngày hôm nay; dù họ đã dùng bạo lực đàn áp trong biến cố Quỳnh Lưu, nhưng tinh thần yêu nước, can trường của người dân các tỉnh miền Trung nói chung, và ở tỉnh Nghệ An nói riêng, đã soi sáng cho các thế hệ sau con đường chính nghĩa để đòi lại tự do.



Được đăng bởi Nhà văn Phạm Viết Đào vào lúc Thứ tư, tháng chín 21, 2011 
Mình đã lần ra cái nguồn của "MỘT VÀI THÔNG TIN VỀ CUỘC NỔI DẬY NĂM 1956 TẠI QUỲNH LƯU NGHỆ AN " mà nhà văng Phạm Viết Đào đăng gọn lỏn trên bờ nhốc của ông ta, nhà văng Phạm Viết Đào đã thuổng 1 đoạn trong bài viết tựa đề "Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu Nghệ An 1956" của tác giả nào đó có tên Cẩm Ninh, 1 tay chóng cọng chết bỏ.

Tóm Lược
Lịch Sử Giáo Phận Vinh

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

1. Giai đoạn phôi thai: 1533-1651
Ngày Lễ Thánh Giuse, 19.03.1627, khi Giáo sĩ Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes) đặt chân lên Cửa Bạng, thuộc tỉnh Thanh Hóa, ngài đã cho dựng một tượng Thánh Giá vĩ đại tại cửa biển và bắt đầu công cuộc truyền giáo. Trong vòng 8 tháng trời giảng đạo, thuyền của cha Ðắc Lộ đã ghé vào những cửa biển ở Xứ Nghệ: Cửa Lò, Cửa Sót và Cửa Rùm. Ở Cửa Rùm ngài đã thành lập được một trung tâm Công Giáo rất sầm uất.
Hơn một năm sau, khi cha Ðắc Lộ phải rời Việt Nam để trở lại Âu Châu trong sự luyến tiếc của toàn thể giáo dân, con số giáo dân đã lên tới 30,000 người. Ngoài ra, cái công lớn nhất của cha Ðắc Lộ là ngài đã khám phá ra chữ Quốc Ngữ, và đã đóng góp vào kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam quyển "Phép Giảng Tám Ngày", ấn hành năm 1651 bằng chữ quốc ngữ nguyên sơ, để dạy giáo lý cho tân tòng. Quyển sách này được coi là một bảo vật văn hóa quí giá, một di sản ngôn ngữ của người Việt Nam. Ngoài ra cha còn viết hai tác phẩm khác bằng tiếng Pháp, có liên quan đến lịch sử truyền giáo tại Việt Nam. Ðó là quyển: "Divers voyages et Missions" (Các Cuộc Hành Trình Truyền Giáo), xuất bản tại Paris năm 1653 và quyển "Histoire du Royaume de Tonkin" (Lịch Sử Nước Bắc Việt), xuất bản bằng tiếng Ý năm 1650, bằng tiếng Pháp năm 1651 và bằng tiếng La-tinh năm 1652.

2. Giai đoạn ổn định: 1659-1792
Nhận thấy công cuộc truyền giáo ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, năm 1659 Tòa Thánh chính thức ban sắc lệnh thành lập 2 Giáo Phận mới: Giáo Phận Ðàng Ngoài, từ tỉnh Quảng Bình trở ra, được giao cho Ðức Cha Francois Fallu coi sóc, và Giáo Phận Ðàng Trong, từ Huế trở vào trong Nam, được giao cho Ðức Cha Lambert de la Motte coi sóc.
Sau đó, khi số giáo dân tăng rất nhanh, Giáo Phận Ðàng Ngoài lại chia ra thành 2 Giáo Phận mới nữa: Giáo Phận Ðông Ðàng Ngoài, gồm Hải Phòng và các tỉnh phía bắc, và Giáo Phận Tây Ðàng Ngoài, từ Hà Nội cho tới Quảng Bình. Phần cực nam từ Thanh Hóa cho đến Sông Gianh được gọi chung là "Xứ Nghệ". Vì Xứ Nghệ cách Hà Nội quá xa, khoảng 500km, mà đường sá lưu thông lại khó khăn, nhất là đại đa số dân chúng còn quá nghèo nàn chất phác và có một giọng nói hoàn toàn khác hẳn ở phía Bắc, nên các vị thừa sai đã dành cho Xứ Nghệ một cơ chế hầu như độc lập. Vì thế, nếu ngoài phía cực bắc có Ðức Giám Mục, thì trong phía cực nam có Ðức Giám Mục phó. Và nếu "ở phía ngoài" có Chủng viện Vĩnh Trị, chung cho cả Ðông và Tây, thì "trong này" lại có Chủng viện Trang Nứa (sau được dời vào Hướng Phương). Còn Tòa Giám Mục được đặt tại Trang Ðen (Nam Ðàn), sau dời vào Thọ Kỳ (Thọ Ninh) vào thời Ðức Cha Hậu I, tức Ðức Cha De La Motte. Trên thực tế hầu như hai Giáo Phận độc lập vậy.

3. Giai đoạn phân chia Giáo Phận: 1792-1846
Khi Ðức Cha Hậu II, tức Ðức Cha Gauthier, dời Tòa Giám Mục từ Thọ Ninh ra đặt ở Xã Ðoài vào năm 1842, thì cũng vào thời gian đó Tòa Thánh quyết định tách Xứ Nghệ ra khỏi Hà Nội (Tây Ðàng Ngoài). Ngày 27.03.1846, Tòa Thánh bổ nhiệm Ðức Cha Hậu II, Phó Giám Mục của Ðức Cha Liêu Retord ở Hà Nội, vào làm Giám Mục tiên khởi Giáo Phận mới Vinh.
Trong một bản tường trình gửi về Tòa Thánh, Ðức Cha Liêu Retord, Giám Mục Chính của Giáo Phận Tây Ðàng Ngoài, ca tụng tinh thần giáo dân Xứ Nghệ như sau: "Ở tại Hà Tĩnh và Nghệ An có tới 45,364 bổn đạo. Trong hai tỉnh này, họ là những bổn đạo sốt sắng nhất trong Giáo Phận". Ðó chính là yếu tố quan trọng thúc đẩy Ðức Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô ra Sắc Chỉ "Ex debitu pastoralis", ngày 27.03.1846, thành lập Giáo Phận Vinh. Theo Sắc Chỉ trên, biên giới của Tân Giáo Phận Vinh được thiết lập như sau: Phía bắc giáp tỉnh Thanh Hóa, phía nam kéo dài đến tả ngạn sông Gianh, giáp huyện Bố Trạch thuộc tỉnh Quảng Bình, phía đông là biển Nam Hải và phía tây là nước Ai Lao. Toàn thể Giáo Phận Vinh bao gồm 3 tỉnh Nghệ An + Hà Tĩnh (22,380 km vuông) và một phần tỉnh Quảng Bình (2,300 km vuông). Tổng cộng diện tích khá rộng lớn là 24,480 km vuông. Vì ở thị xã Vinh, tuy tiện trục giao thông, nhưng lại quá ồn ào náo động và nhất là đa số dân cư vào lúc bấy giờ ở thị xã Vinh còn là lương dân, thành thử Toà Giám Mục được dời về Xã Ðoài, cách thị xã Vinh khoảng 13 km. Bởi vậy, mới có trường hợp duy nhất ở Việt Nam là Tòa Giám Mục và Giáo Phận mang hai tên khác nhau: Giáo Phận Vinh, nhưng Tòa Giám Mục Xã Ðoài.
Ở Xã Ðoài tuy được ưu điểm là một miền quê yên tĩnh, nhưng lại thuộc miền đất phèn, không thích hợp cho việc trồng trọt hoa màu, nên rất nghèo nàn và không ai muốn đến lập nghiệp ở đó cả. Vì thế các cô thôn nữ đã thường ca thán với nhau:
"Cậu ra ba bữa cậu về,
"Ðồng chua nước mặn chớ hề ở lâu!"
Hiện nay, giáo xứ địa đầu phía bắc là Giáo xứ Hoàng Mai, trong một vùng lam sơn chướng khí. Còn phía cực nam kề biển là Giáo xứ Tân Thành; mé quốc lộ số 1 là Giáo xứ Mỹ Hòa, và mặt núi rừng là Giáo xứ Chày. Giáo xứ này nằm đối diện chênh vênh với Chùa Hang, tức Ðộng Phong Nha, một thắng cảnh danh tiếng thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.

4. Giai đoạn thử thách: vào các năm trước và sau 1846
Theo lịch sử Giáo Hội, vào năm 1655, ở Miền Bắc (Giáo Phận Ðàng Ngoài) đã có 414 thánh đường, trong số đó nguyên ở các tỉnh Nghệ-Tĩnh-Bình đã chiếm 160 ngôi rồi. Lúc chia Giáo Phận (1846) từ Giáo Phận Tây Ðàng Ngoài (Hà Nội), phần đất dành cho Giáo Phận Vinh gồm có 3 vị thừa sai, 35 Linh mục bản quốc, 75 thầy giảng, 69 đại chủng sinh, 290 tiểu chủng sinh, 270 nữ tu, 19 Giáo xứ với 345 Họ lẽ, và số giáo dân là 66,350 người. Giáo Phận có được một số vốn liếng dồi dào như vậy là nhờ được xây dựng trên máu của các tiền nhân tử đạo anh dũng của hai thế kỷ về trước.
Thật vậy, sau khi Ðức Cha Hậu nhận chức được 6 tháng thì vua Thiệu Trị mất và vua Tự Ðức lên kế vị. Thời cuộc chính trị trở nên rối ren, khiến triều đình Huế ra chính sách bách hại tàn bạo Ðạo Công Giáo suốt 36 năm trời, với 13 sắc chỉ cấm đạo, coi Ðạo Công Giáo là "Tả Ðạo", là dịch tệ, là lừa dối dân đen, v.v... Ðúng hai năm sau khi thiết lập, chủ chăn và đoàn chiên Giáo Phận Vinh phải sống lén lút và tản mát khắp nơi. Người ta có thể nói được rằng trong thời kỳ bắt đạo suốt mấy thế kỷ trước ở Việt Nam, Giáo Hội Công Giáo thuộc Giáo Phận Vinh là bị bắt bớ và chịu gian khổ nhiều nhất. Giáo Phận có khoảng 20 vị Linh Mục tử đạo trong thời cấm cách này, chưa được phong thánh. Năm 1868, Giáo Phận đã lập hồ sơ phong thánh cho các vị Tử Ðạo Vinh. Trong số 117 vị Tử Ðạo được Giáo Hội hoàn vũ tôn lên bậc Hiển Thánh vào ngày 19.06.1988, đã có 6 Thánh Tử Ðạo thuộc Giáo Phận Vinh, bị giết dưới thời Minh Mạng (5 vị) và thời Thiệu Trị (1). Danh sách các ngài như sau:
1. Thánh Phêrô Lê Tùy, Linh mục, tử đạo ngày 11.10.1833
2. Thánh Phêrô Borie Cao, Giám mục, 24.11.1838
3. Thánh Phêrô Vũ Ðăng Khoa, Linh mục, 24.11.1838
4. Thánh Vincente Nguyễn Thời Ðiểm, Linh mục, 24.11.1838
5. Thánh Phêrô Nguyễn Khắc Tự, Thầy giảng, 10.07.1840
6. Thánh Phêrô Hoàng Khanh, Linh mục, 12.07.1842
Trong thời gian bắt đạo quá tàn khốc như thế, Ðức Cha Hậu và các cha thừa sai đành phải sang lánh nạn ở Hồng Kông một thời gian (1859-1862). Vào năm 1861 (Tự Ðức năm thứ 14) có cha Phêrô Nguyễn Bá Triêm được phúc tử đạo tại Quán Thầu Ðầu và hài cốt ngài hiện an nghĩ trong nhà thờ xứ Thanh Dạ. Trong nhà thờ Thuận Nghĩa, huyện Quỳnh Lưu còn có hài cốt cha Phêrô Nguyễn Trúc, tử đạo. Cha Giacôbê Nguyễn Danh Thông cũng được phúc tử đạo, nhưng không biết hài cốt ngài hiện ở đâu.
Ngoài các vị tử đạo đã được ghi tên tuổi trong sổ vàng của Giáo Hội hoàn vũ và của Giáo phận như trên, còn có những vị tử đạo anh hùng trong thời hiện đại. Ở đây, người ta phải kể đến các vị tử đạo anh hùng của Liên Ðoàn Thanh Niên Công Giáo Việt Nam do Ðức Cha Lê Hữu Từ (Gp. Phát Diệm) thành lập vào năm 1946. Tuy phong trào chủ trương hoàn toàn đứng ngoài mọi hoạt động về chính trị và đảng phái, vì mục đích và tôn chỉ của Liên Ðoàn là phụng sự Thiên Chúa và tổ quốc trong tinh thần ôn hòa, nhưng sau khi hoạt động được hai năm thì Liên Ðoàn đã bị nhà cầm quyền lúc bấy giờ đàn áp một cách dã man. Toàn ban chấp hành của Liên Ðoàn bị bắt và bị giết: Ông Phạm Tuyên, chủ tịch Liên Ðoàn, bị tử hình; ông Mạnh Trọng Niệm và em là Mạnh Trọng Tuệ bị tử hình; Ông Trương Văn Hứa bị tử hình; Còn các ông Bùi Quỳnh, Phạm Huy Châu, Lm Tuyên úy Trương Văn Liệu, Khánh Sơn, Trần Văn Trị, Sáu Tuyên và một số thành viên khác bị khổ sai chung thân; Lm Võ Viết Hiền bị chết rũ tù. Riêng cô Liên Phương chịu trách nhiệm về Nữ Giới, bị tra tấn tàn bạo đến chết. Ðặc biệt nhất là trong ngày xử tử anh hùng Phạm Tuyên, bà vợ của ông thay vì than khóc buồn sầu và đau khổ, bà đã đi mua sẵn mấy chục thước vải trắng tinh đưa về cắt ra làm mấy chục tấm theo số tuổi của chồng, và trong ngày xử, sau khi linh hồn ông bay về Thiên đàng hưởng mặt Chúa, thì bà đã dùng những tấm khăn trắng đó thấm từng giọt máu tử đạo của chồng đổ ra trên mặt đất và vui mừng đưa về nhà thờ kính.

5. Danh sách các Ðức Giám Mục cai quản Giáo Phận Vinh
a) Các Giám Mục thừa sai:
1. Ðức Cha Hậu (Gauthier), cai quản từ 1842-1877
2. Ðức Cha Phó Nghiêm (Masson), 1848-1853
3. Ðức Cha Hòa (Croc), 1868-1885
4. Ðức Cha Trị (Pineau), 1886-1910
5. Ðức Cha Thọ (Belleville), 1911-1912
6. Ðức Cha Bắc (Eloy), 1912-1947
Từ ngày 14.06.1951 Giáo phận Vinh được giao lại cho các Ðức Giám Mục bản quốc gốc Vinh coi sóc.
b) Các Giám Mục Việt Nam gốc Vinh:
1. Ðức Cha GB. Trần Hữu Ðức, cai quản từ 1951-1971
2. Ðức Cha Phó Phaolô Nguyễn Ðình Nhiên, 1963-1969
3. Ðức Cha Phêrô Nguyễn Năng, 1971-1978
4. Ðức Cha Phêrô Trần Xuân Hạp, 1979- 2000
5. Ðức Cha Phaolô Cao Ðình Thuyên, 2000-

6. Nghệ-Tĩnh-Bình: Vùng đất anh hùng hào kiệt
Hễ nói đến vùng đất Nghệ-Tĩnh-Bình là không thể không nhắc đến tên tuổi của những người con ưu tú của dãy đất Miền Trung này, không thể không nhắc đến tên tuổi của những vị anh hùng dân tộc mang trong mình dòng máu Nghệ-Tĩnh-Bình được.
Nếu chúng ta đứng từ Bến Thủy thuộc Nghệ An nhìn sang đất Hà Tĩnh ở phía nam, chúng ta sẽ thấy một cảnh non nước tuyệt đẹp: Cảnh "Sông Lam, Núi Hồng", trải rộng mênh mông và xanh biếc một màu. Bên kia, vượt hàng cây xanh là quả núi Hồng Lĩnh bao phủ kín chân trời. Nhìn toàn cảnh mà du khách cứ muốn tìm đâu là Tiên Ðiền, đâu là Uy Viễn?
a) Các liệt sĩ và các nhà cách mạng
Vâng, bên trái Cửa Hội, cách khoảng 5km, là làng Uy Viễn, quê của vị quan nổi danh Nguyễn Công Trứ (1778-1858), Doanh Ðiền Sứ của Triều Ðình, đã có công khai phá miền Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Phát Diệm) thành một miền đất trù phú như chúng ta thấy ngày nay. Còn bên trái, cách 6km, là làng Tiên Ðiền, quê của nhà văn hào dân tộc Nguyễn Du với tác phẩm bất hủ "Ðoạn Trường Tân Thanh" mà dân gian thường gọi là Chuyện Kiều. Một nhà thi sĩ nổi tiếng khác là nữ sĩ Hồ Xuân Hương, quê bà ở Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Bà là tác giả của những cuốn "Xuân Hương Thi Tập" và "Ðồ Sơn Bạt Vịnh", v.v... Cách thị xã Vinh 13km là đất Làng Sen, thuộc huyện Nam Ðàn. Qua một đầm sen, du khách theo một lối ngõ hoa dâm bụt, sẽ đến một căn nhà lá bạc màu. Trong nhà, một chiếc võng vắt ngay gian giữa, còn chiếc phản gỗ được kê ở gian bên, chiếc rương gỗ, giá sách tre, v.v... đó là tất cả gia sản của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Nguyễn Sinh Cung. Cậu bé chào đời năm 1890 và lớn lên thành nhà giáo Nguyễn Tất Thành. Vốn thông minh khác thường, giàu tinh thần cách mạng, mang nặng dòng máu Nghệ-Tĩnh yêu nước, nhà giáo Nguyễn Tất Thành đã bỏ nghề dạy học, xuất dương tìm đường cứu nước. Năm 1930, ông thành lập "Việt Nam Thanh Niên Ðồng Minh Hội" hay gọi tắt là "Việt Minh", sau đổi thành Ðảng Cộng Sản Ðông Dương, dưới bí danh là Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh... Nhưng nhắc đến tên Nam Ðàn người ta không thể quên được tên một vĩ nhân khác, đó là chí sĩ Phan Bội Châu (1867-1940). Cùng với Phan Chu Trinh, Trần Quí Cáp, Tăng Bạt Hổ, v.v... ông đã cho phổ biến "Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư" và đã làm chấn động cả nước. Ông cổ võ "Duy Tân Tự Cường" và phát động "Phong Trào Ðông Du". Nhưng trước khi bỏ đất Nghệ An, chúng ta không quên tên tuổi của một nữ tướng thời danh Bùi Thị Xuân (?-1802). Tuy được sinh ra tại Bình Ðịnh, nhưng gốc ở Triệu Phong (Nghệ An). Là một người phụ nữ có sức mạnh và lòng can đảm phi thường. Bà đã từng huấn luyện voi và điều khiển đội chiến tượng gồm 100 thớt voi ra Bắc Hà đánh bại quân Thanh. Bà là nữ tướng có công đánh đuổi Tôn Sĩ Nghị và giải phóng được thành Thăng Long.
Tiếp đến, khi rời Nghệ An du khách sẽ đặt chân đến làng Ðông Thái, huyện Ðức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ðó chính là quê hương của nhà đại cách mạng Phan Ðình Phùng (1847-1895). Ông nổi danh với cuộc nổi dậy chống Pháp ở Hương Khê thuộc tỉnh Hà Tĩnh, và kéo dài 11 năm. Ðịa bàn hoạt động của quân kháng chiến do ông lãnh đạo bao trùm các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Trong các tướng giỏi của ông có anh hùng Cao Thắng. Một danh sĩ khác, sinh tại làng Bùi Chu, huyện Hưng Yên, tỉnh Nghệ An, cũng chứa chan một bầu nhiệt huyết yêu nước thương nòi, đó là Nguyễn Trường Tộ (1827-1871). Ông đã muốn dùng sự hiểu biết và du học của mình để dâng lên vua Tự Ðức mấy chục bản điều trần canh tân đất nước trong các lãnh vực: Chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, tài chính, giáo dục, giao thông, vận tải, khai mỏ, khẩn hoang, v.v... Nhưng tiếc thay, các bản điều trần khẩn cấp của ông đã bị bọn nịnh thần xé bỏ, khiến cho những kiến nghị của ông chỉ là tiếng kêu trong sa mạc vô vọng. Nguyễn Trường Tộ vốn thuộc một gia đình theo đạo Công Giáo từ nhiều đời và là học trò của Ðức Giám Mục Gauthier. Nhưng ngoài Nguyễn Trường Tộ, là một giáo dân đã hết lòng vì đất nước, lịch sử Giáo Phận Vinh còn ghi nhớ một vị Linh mục Công Giáo, một người con của Giáo Phận, đã làm quan lớn dưới triều vua Tự Ðức. Ðó là cha Phaolô Nguyễn Hoằng (1839-1909). Cha Hoằng sinh tại xứ Phương Trạch, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Cùng với ông Petrus Ký, cha được tham gia phái bộ Phan Thanh Giản qua Pháp để điều đình vào các năm 1863-64. Ông Nguyễn Trường Tô, sống cùng thời, đến thăm và khen Linh mục Hoằng: "Người giỏi tiếng Tây, ngay từ khi ngài còn là giáo sĩ phó tế".
Rời đất Nghệ An đi qua Hà Tĩnh và du khách sẽ đặt chân lên đất tỉnh Quảng Bình, vùng đất của các bậc vĩ nhân. Trước hết, về phương diện văn thơ: Một trong những thi sĩ công giáo nỗi danh nhất là nhà thơ Hàn Mặc Tử, tên thật là Phan-xi-cô Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22.09.1912 tại Ðồng Hới. Ông là tác giả của những tập thơ nỗi danh và rất được giới yêu thơ quí chuộng như "Ðau Thương", "Xuân Như Ý", "Duyên Gấm Ngọc Trai", v.v... và là thần tượng một thời của giới sinh viên, học sinh trong cả nước. Năm 1940, một cơn bạo bệnh đã cướp đi người con tài hoa của vùng đất xứ Quảng. Tiếp đến, về phương diện xã hội chính trị: chí sĩ Ngô Ðình Diệm, Tổng Thống tiên khởi của Miền Nam Việt Nam, là người phải được xưng danh đầu tiên. Sau khi đã trục xuất tên thực dân Pháp cuối cùng ra khỏi lãnh thổ đất nước bằng con đường ngoại giao khéo léo, ổn định cuộc sống cho hơn một triệu người di cư từ Miền Bắc vào trong một hoàn cảnh cực kỳ phức tạp và khó khăn lúc bấy giờ, v.v... ông đã được đồng bào nhất mực tín nhiệm bầu vào chức vụ Tổng Thống. Tuy ông lớn lên ở Huế, nhưng quê gốc và dòng máu yêu nước hào hùng của ông là của người Quảng Bình. Năm 1963, trong một cuộc đảo chánh do một số tướng lãnh phản bội âm mưu, dưới sự lèo lái của người Mỹ, ông và hai người em trai ruột bị sát hại. Còn những nhà cách mạng khác trong lịch sử của một nước Việt Nam, là đại tướng Võ Nguyên Giáp, anh hùng Ðiện Biên Phủ, v.v... Tất cả đều là những người con ưu tú của vùng đất Quảng Bình.
b) Các vị Linh Mục Công Giáo ái quốc
Tuy là Linh mục của Giáo Hội, nhưng các ngài cũng là những con dân Nghệ-Tĩnh-Bình, luôn sôi sục trong mình dòng máu cách mạng bất khuất. Trước hết phải kể đến Linh mục Mai Lão Bạng, trong Giáo Phận Vinh gọi ngài là "Ông Già Châu". Sinh ra và lớn lên ở Vinh. Ông rất căm phẩn trước cảnh thực dân Pháp dày xéo quê hương, nên rất tích cực hoạt động cho "Phong Trào Ðông Du" của Phan Bội Châu. Chí sĩ Kỳ ngoại Hầu Cường Ðể rất mến phục ông. Cụ Phan Sào Nam cũng rất quí mến ông và đã tặng ông mấy chữ "Lão Bạng Minh Châu" Vào năm 1918 Linh mục Mai Lão Bạng bị sa lưới mật thám của Pháp ở Thái Lan. Ông để lại tập thơ cách mạng bất hủ: "Lão Bạng Phổ Khuyến Thơ". Nội dung là những lời kêu gọi đồng bào cả nước lương hay giáo hãy đoàn kết cứu nước và đừng để thực dân Pháp lợi dụng gây chia rẽ. Tiếp đến, đặc biệt nhất là ba Linh mục khác nắm giữ các địa vị then chốt trong Giáo Phận Vinh: Lm Nguyễn Văn Tường (Quản lý của Giáo Phận), Lm Nguyễn Thần Ðồng (cha sở Nhà Thờ Chính Tòa), và Lm Ðậu Quang Lĩnh (bí thư Tòa Giám Mục). Cả ba vị đều bị thực dân Pháp kết án 9 năm tù khổ sai biệt xứ và bị đày ra Côn Ðảo ngày 21.10.1909, vì văn hóa Ðông Du. Và cũng vì thái độ "bao che" cho ba vị Linh mục ưu tú trên mà Ðức Giám Mục Pineau Trị bị triệu hồi về Pháp và bị ép buộc phải ký tên vào đơn xin từ chức.
- Linh mục Nguyễn Văn Tường (1853-1915), sinh năm 1853 tại Văn Tường, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Cha Delignon, Tổng Ðại Diện Giáo Phận Saigon, năm 1909 được Ðức Cha Mossard, Giám mục Saigon, cử ra thăm ba vị ở Côn Ðảo và khi trở về đã báo cáo về cha Tường: "Người già nhất là cụ Tường, 56 tuổi, hơi hói đầu, đeo kiếng và mang một chòm râu hoa râm dưới cằm, trông giống như một ông quan, nhưng khuôn mặt trông rất hiền hậu". Nhờ tài khéo quản lý trong xứ và là người đáng tin cậy, nên Ðức Cha Pineau Trị gọi về Xã Ðoài và giao cho trọng trách quản lý toàn bộ tài chánh của Nhà Chung mà từ trước tới nay vẫn nằm trong tay các thừa sai người Pháp. Sự bổ nhiệm đã gây nên sự bất bình giữa các Linh mục thừa sai, nhất là nơi cha Tổng Ðại Diện Giáo Phận là Linh mục người Pháp tên Abgrall Ðoài. Chính cha Ðoài đã viết thư về Pháp cho Ðức Hồng Y Gotti và Tổng quyền Hội Thừa Sai Paris để tố cáo Ðức Cha Pineau là kém khả năng quản trị Giáo Phận, về cả mặt tài chánh lẫn nhân sự. Trong một thư khác, cha Ðoài lại gọi các Linh mục Việt Nam là "bọn người đốn mạt". Khi biết được chuyện đó, Ðức Cha Pineau liền cách chức cha Abgrall Ðoài. Còn cha Tường từ trần tại Côn Ðảo vào năm 1915, trước khi mãn hạn tù khổ sai.
- Linh mục Nguyễn Thần Ðồng (1867-1944), sinh tại xứ Nhân Hòa, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Chịu chức năm 1902 và được bổ nhiệm làm Cha sở Nhà Thờ Chính Tòa Xã Ðoài. Ngài rất có lòng bác ái, thương người và tinh thần xã hội. Về cha Ðồng, cha Delignon đã mô tả: "người thứ hai là linh mục Ðồng, 43 tuổi, người bé nhỏ và mặc dầu ít cởi mở, nhưng vẫn sẵn sàng trò chuyện và tỏ ra là người có óc phán đoán tốt". Từ nhà tù Côn Ðảo cha Ðồng đã làm một bài thơ gửi cho một người bạn tri kỷ:
Cái buồn ai biết cái làm sao?
Vướng vít lòng ta đến nỗi nào!
Ðứng lững, ngồi lơ, nằm dở giấc
Sớm trông, chiều nhớ, tối chiêm bao!
Xa xa trên núi chòm vân phủ
Lộng lộng trước khơi ngọn thủy trào.
Mấy kẻ tri ân ai biết chăng?
Một mình càng nghĩ, nghĩ càng đau!
Sau khi mãn tù ở Côn đảo (1918), cũng như cha Ðậu Quang Lĩnh, cha Ðồng được Ðức Cha Mossard nhận về làm việc trong Giáo phận Saigon, vì cả hai bị án biệt xứ, cấm không được cư trú tại Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Ngày 26.12.1944, cha Nguyễn Thần Ðồng từ trần tại quê nhà, sau 9 năm khổ sai và 32 năm biệt xứ chỉ vì lòng ái quốc và mối thịnh tình với Phong trào Văn hóa "Ðông Du".
- Linh mục Ðậu Quang Lĩnh (1968-1930). Cha là người trẻ nhất trong ba vị. Sinh năm 1868 tại Yên Phú, huyện Ðức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Linh mục Delignon đã nhận định về cha Lĩnh: "Cụ là một người cao lớn, chững chạc và xem ra rất thông minh". Bởi vậy, tuy trẻ nhất, nhưng ngài là trưởng nhóm của ba vị Linh mục cách mạng. Từ khi còn là chủng sinh, cha Lĩnh đã nổi tiếng là thông minh, rất giỏi Pháp văn, La văn và Hán ngữ, lại có khiếu về âm nhạc. Năm 1908 chịu chức Linh mục. Ðức Cha Pineau Trị gọi về Nhà Chung cử làm Thư ký Tòa Giám mục. Vì thế ngài luôn tháp tùng Ðức Cha Trị trong tất cả các cuộc kinh lý của Ðức Cha và đã nhìn thấy được những cảnh các Linh mục thừa sai đối xử thiếu nhân bản với các Linh mục Việt Nam, trong đó có cả ngài nữa. Nếu các Linh mục Tây mà còn đối xử như vậy với các Linh mục Việt Nam như thế, huống hồ là bọn thực dân Pháp còn đối xử tàn tệ thế nào nữa với người dân thường. Ðó chính là những điều luôn làm cha Lĩnh bức xúc và hết sức ủng hộ phong trào văn hóa Ðông Du. Từ trong tù Côn Ðảo ngài vẫn tiếp tục "làm văn hóa", trong đó có bài thơ ngài đã gửi về cho một người bạn:
Ngồi tính lần lần đốt ngón tay
Cách nhau trót đã bảy năm chầy
Tóc râu nay đã lem nhem bạc
Hình vóc trông ra móm mém gầy
Ngồi nghĩ nhớ nhà, nằm nhớ nước
Sớm ra trông bể tối trông mây
Ðông qua xuân tới xây vần mãi
Hội ngộ nay mai sẽ có ngày.
Sau khi mãn tù, cha Lĩnh được Ðức Cha Mossard cử làm Phó xứ Cái Mơn, sau lên làm Chánh xứ. Nhờ có tài đức lỗi lạc, cha đã được chọn làm Quản hạt, đồng thời làm Bề trên một Tu viện trên 200 Nữ tu. Cha Lĩnh qua đời năm 1930. Mộ phần của ngài còn nằm trong nhà thờ Tu viện Mến Thánh Giá ở Cái Mơn, Vĩnh Long.
- Linh mục Lê Sương Huệ. Ngoài "Bộ Ba Linh Mục Côn Ðảo" như đã nói trên, người viết lịch sử Giáo Phận Vinh sau này sẽ không thể bỏ qua được vị Linh mục thứ bốn là Linh mục Lê Sương Huệ. Theo gương các vị tiền bối, từng xả thân cho đại cuộc, góp sức đẩy mạnh công cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân phong kiến, chống một lượt vừa ngoại xâm Pháp vừa Nhật trong suốt vùng đất Thanh-Nghệ-Tĩnh-Bình. Cha Huệ sinh năm 1888, tại làng Cây Khế, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Con một gia đình trung nông, và được hấp thụ một nền giáo dục thuần túy Công Giáo. Trưởng thành trên giải đất Nghệ-Tĩnh-Bình, nơi đã thấm máu của bao vị anh hùng cứu nước. Ngài được nuôi dưỡng thêm truyền thống bất khuất, cương quyết của giống nòi. Hoạt động của ngài bắt đầu từ năm 1942, lúc Âu Châu đang bị khủng hoảng dữ dội, Pháp hầu như bị ép buộc lép vế ở Ðông Dương. Ngài bắt đầu liên lạc với các nhà Ái quốc như chí sĩ Ngô Ðình Khôi, nhà cách mạng Ngô Ðình Diệm, để thống nhất ý chí hành động. Ngài bị mật thám Pháp bắt năm 1944 tại nhà xứ của ngài ở Lập Thạch và bị đày vào Trà Khê (Phú Yên). Vào tháng 3.1945, nhân cuộc đảo chính Nhật, cha Huệ được tha. Năm 1948, trên đường đi từ Saigon đến Vĩnh Long, ngài bị phục kích và bị sát hại.
Cả bốn vị Linh mục cách mạng nổi danh của Giáo phận đã nằm xuống. Nhưng sự hy sinh to lớn của các ngài đã không vô ích. Tố quốc của các ngài đã hoàn toàn được giải phóng. Nước Việt Nam nay là của người Việt Nam. Ðồng thời những dòng máu tông đồ nhiệt thành của các ngài cũng đã tô điểm cho Giáo Hội quê nhà thêm đông kẻ thờ phượng Chúa. Ðàng khác, máu của các ngài cũng như của hàng ngàn Kitô hữu đã đổ ra, nhuộm đỏ quê hương hình chữ S, chỉ vì lòng yêu nước thương nòi, chỉ muốn tranh đấu dành độc lập cho tổ quốc thân yêu khỏi tay ngoại bang xâm lược, là cả những lời minh chứng hùng hồn cho những lời kết án hồ đồ, cho người Công Giáo là theo Tây, là nối giáo cho giặc, v.v... Tóm lại, tất cả những đứa con ưu tú của quê hương Nghệ-Tĩnh-Bình, đồng thời là những vị anh hùng của toàn thể dân tộc Việt Nam, xưa kia cũng như ngày, đã khẳng định rằng dải đất Miền Trung này không phải cằn cỗi nghèo nàn, nhưng là dải đất đầy mầu mỡ hùng cường, dải "đất lành chim đậu", dải đất của các anh hùng hào kiệt khét tiếng cả giang sơn Việt Nam.

7. Biến cố di cư năm 1954
Sau khi cuộc chiến Pháp-Việt kéo dài 8 năm trời đã được chấm dứt với Bản Hiệp Ðịnh giữa đôi bên được ký kết tại thành phố Genève của Thụy Sĩ vào ngày 20.07.1954, tạm lấy Vĩ Tuyến 17 trên sông Bến Hải (Thạch Hản) làm biên giới phân chia giữa Bắc và Nam Việt Nam, cho tới ngày tổng tuyển cử sẽ được tổ chức sau đó, mọi người dân ở cả hai Miền được tự do lựa chọn khu vực sinh sống của mình. Thêm vào đó, lúc bấy giờ một cơn đói đang hoành hành khắp Miền Bắc đã khiến cho khoảng 1,300,000 người dân Miền Bắc mà đa số là người Công Giáo đã di cư vào Miền Nam lập nghiệp. Trong số đó có 57,868 người Công Giáo thuộc Giáo Phận Vinh. Số giáo dân Nghệ-Tĩnh-Bình di cư vào Nam đã phân tán mỏng ra như sau: Giáo Phận Huế: 1,320 người; Giáo Phận Ðà Nẵng: 4,966 người; Giáo Phận Qui Nhơn: 1,032 ngưới; Giáo Phận Nha Trang (và Phan Thiết): 21,792 người; Giáo Phận Kontum: 7,023 người; Giáo Phận Ðà Lạt: 5,390 người; Giáo Phận Cần Thơ: 817 người; Giáo Phận Long Xuyên: 2,753 người; Giáo Phận Saigon: 11,868 người. Còn số giáo dân hiện nay của Giáo Phận Vinh ở Miền Bắc là 406,023 người rải rác trên hai tỉnh Nghệ An, Hà tĩnh và một phần tỉnh Quảng Bình. So với số giáo dân di cư của các Giáo Phận khác thì các giáo dân gốc Nghệ-Tĩnh-Bình có thể được coi là đông vào bậc nhất nhì, nhưng vì người Dân Vinh di cư vào Nam muộn hơn người Bắc và vì các Linh mục Vinh lúc bấy giờ không được tháo vát, nên Dân Vinh đã bị đưa đi định cư rải rác ở các tỉnh lẽ và trên các vùng Cao nguyên hẻo lánh, chứ không được định cư vùng ngoại ô kế cận Saigon, cả đến một căn nhà nho nhỏ ở Saigon để làm Trụ sở giao dịch cũng không có. Mãi về sau, nhờ sự lo lắng của các Linh mục Trương Cao Khẩn và Nguyễn Viết Khai, Dân Vinh mới có căn phố số 32 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm làm nơi gặp gỡ nhau.
- Giáo xứ Tân Bình
Cùng theo dòng thác di cư đó, ngày 10.02.1955, cha Nguyễn Văn Dũng và cha Nguyễn Quang Dung (hiện mộ cha già Dung đang nằm trong khuôn viên nhà thờ Tân Bình) đem một số giáo dân thuộc các xứ Hướng Phương, Hòa Ninh, Gia Hưng, Minh Cầm đi vào miền Cam Ranh thuộc tỉnh Khánh Hòa lập thành hai trại định cư Tân Bình và Bãi Giếng, nay là Bắc Vĩnh. Ngày nay cả hai Giáo xứ Tân Bình cũng như Bắc Vĩnh đã trở thành một trong những Giáo xứ sầm uất và sinh động nhất của Giáo Phận Nha Trang (xin xem tiếp bài "Tân Bình Quê Hương Tôi" trong cuôn Kỷ Yếu này).
- Tu Viện Mến Thanh Giá Tân Bình
Có thể nói được rằng trong các Giáo xứ di cư gốc Nghệ-Tĩnh-Bình ở Miền Nam, không có một Giáo xứ nào được hân hạnh như Giáo xứ Tân Bình, là có một Tu Viện các Sơ Mến Thánh Giá ngay giữa lòng Giáo xứ. Vì thế không thể nói đến Giáo xứ Tân Bình mà lại không nhắc đến Tu viện của các Sơ Dòng Mến Thánh Giá Tân Bình.
Năm 1955, khi cha Nguyễn Văn Dũng và một số giáo dân của ngài từ Quảng Bình vào tới Ðà Nẵng, ngài đã đi vào Nha Trang trước để nhờ cha Lê Công Khương hướng dẫn tìm một nơi định cư thật thuận lợi cho giáo dân của ngài. Cha Khương đã giới thiệu vùng đất tại xã Suối Vĩnh, quận Suối Dầu, nằm bên Quốc lộ số 1, gần núi và biển. Thấy quang cảnh quá hữu tình, cha Dũng đã vui vẽ lên hứng nói một câu rất chí lý: "Nhất cận thủy, nhì cận sơn". Sau đó ngài trở lại đưa 2,000 giáo dân, trong đó có 33 chị em Dòng Mến Thánh Giá Hướng Phương, vào Nha Trang. Nhưng khi các Sơ Mến Thánh Giá vào tới Nha Trang thì được Ðức Cha Marcel Piquet, Giám Mục Giáo Phận Nha Trang cho ở tạm trong nhà các Sơ Saint Paul tại khu nhà số 1-3, đường Lê Thánh Tôn. Sau đó bà Bề trên Maria Nguyễn Thị Lan xin cho chị em được dời đi nơi khác thì Ðức Cha Piquet cho chị em ở tạm tại nhà các Sơ Dòng Ðức Mẹ Khiết Tâm Bình Cang. Ở Bình Cang đưọc 7 tháng thì Mẹ Bề trên Lan lại xin Ðức Cha Piquet cho phép chị em về Tân Bình định cư và Ðức Cha đồng ý. Thế là từ ngày 20.12.1955 chị em Mến Thánh Giá Hướng Phương Giáo Phận Vinh định cư tại Tân Bình dưới sự dìu dắt của Ðức Cha Marcel Piquet và cha xứ Tân Bình Nguyễn Văn Dũng. Ngày nay Dòng Mến Thánh Giá Tân Bình đổi tên thành Dòng Mến Thánh Giá Nha Trang. Từ những thử thách khó khăn tưởng như không thể vượt qua được ở buổi đầu, Nhà Dòng đã phát triển một cách mạnh mẽ trong mọi lãnh vực. Về nhân sự: từ con số 33 chị em còn quá khiêm tốn lúc mới vào định cư, nay đã tăng lên vượt mực. Tính đến năm 2006, số nhân danh của Nhà Dòng gồm có: 181 Sơ khấn trọn, 103 Sơ khấn tạm, 50 Sơ tập sinh, 30 Sơ thỉnh sinh và 300 em đệ tử. Về cơ sở vật chất: Các chị em đã cùng nhau chắt chiu tần tảo xây dựng được một cơ ngơi thật nguy nga đồ sộ. Những căn nhà mái tranh vách đất xiêu vẹo hay được lợp tôn chật chội và nóng bức năm nào, nay đã được thay thế bằng những ngôi nhà lầu bê tông cốt sắt trông rất hoành tráng, hoàn toàn bảo đảm an ninh cho đời sống tu trì và kinh nguyện hằng ngày của chị em. Ngoài ra chị em Mến Thánh Giá Nha Trang còn xây dựng được khắp nơi những trung tâm vừa để huấn luyện chị em vừa để làm bàn đạp truyền giáo. Vâng, đặc biệt nhất là vấn đề huấn luyện và đào tạo chị em: Ðó là mối quan tâm và nỗi bức xúc vô cùng quan trọng của Nhà Dòng, cốt sao có thể thích ứng được với những tiến bộ và đổi mới của não trạng con người ngày nay. Vì thế, ngoài việc cho các chị em trẻ có khả năng không chỉ theo học đủ các ngành khoa học trong nước, mà Nhà Dòng còn gửi các chị em ưu tú đi du học ở ngoại quốc. Ðó là những canh tân rất hợp thời và rất đáng khích lệ của chị em Dòng Mến Thánh Giá Nha trang hiện nay. Và đó cũng là dấu chỉ tích cực cho tương lai của Nhà Dòng Mến Thánh Giá Nha Trang Tân Bình. Nhà Dòng là niềm hãnh diện của cả Giáo xứ!

Kết luận
Qua những dòng tóm lược Lịch Sử Giáo Phận Vinh trên đây, người ta phải khách quan công nhận rằng tất cả những người giáo dân gốc Vinh, đều có chung một niềm tự hào về tinh thần quật cường bất khuất của dòng máu Nghệ-Tĩnh-Bình anh hùng, trong tất cả mọi lãnh vực: kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, tôn giáo. Dù sống trên vùng đất quê mẹ Nghệ-Tĩnh-Bình hay sơ tán trên khắp đất nước Việt Nam hoặc ở một chân trời nào trên thế giới, người Công Giáo Vinh luôn luôn giữ được bản sắc và những phẩm tính cao quí của mình. Ðó là chân thành, trung kiên, chịu khó, cần mẫn, cương quyết và luôn lấy chữ tín làm đầu, chứ không bao giờ lật lọng hay dua nịnh. "Trung thần bất nhị quân" - một người tôi trung không bao giờ phục vụ một lần hai chủ, luôn luôn là khí phách của người dân Nghệ-Tĩnh-Bình. Kính thờ Thiên Chúa và phục vụ Tổ Quốc luôn được người Dân Vinh đặt lên trên hết. Bởi vậy, đồng bào cả nước - lương cũng như giáo - luôn hướng nhìn về vùng đất Miền Trung Nghệ-Tĩnh-Bình với tất cả sự kính phục và cảm mến. Nghệ-Tĩnh-Bình muôn năm!

Tài liệu tham khảo:
- "Giáo Phận Vinh, Nghệ Tĩnh Bình", Lm Cao Văn Luận, Khai nguồn lịch sử, Saigon 1975.
- "Lược sử Giáo Phận Vinh", Hồ Ðức Hân, do nhóm thân hữu Nghệ Tĩnh Bình phát hành, Hoa kỳ 1989.
- "Kỷ Yếu Năm Thánh GP Vinh", Tòa Giám Mục Xã Ðoài, 1992.
- "Lịch sử biên niên Việt Nam", Thư viện Học Viện Viễn Ðông Bác Cổ Pháp, EPEO, Paris.
- "Di sản Hán Nôm Việt Nam, thư mục đề yếu", NXB-KHXH, Hà Nội, 1993, gồm 3 Tập.
- "Việt Nam Giáo Sử", Lm Phan Phát Nguồn, quyển I, trang 356.
- "Les Annales des MEP".
- "Thám hiểm Phong Nha", Báo Lao Ðộng, số ra ngày 16.08.1994.
- "Triết Lý Chấp Sinh Nguyễn Công Trứ", Lm Vũ Ðình Trác, (Luận án tiến sĩ, xuất bản ở Orange, CA. 1988).
- "Nguyễn Trường Tộ, Con Người và Di Thảo", Lm Trương Bá Cần, Tp. Saigòn, 1988.
- "Lịch sử Giáo Phận Vinh", Lm Cao Vĩnh Phan, Hoa kỳ, 1996.
- "Những bí mật đàng sau các cuộc Thánh Chiến tại Việt nam", Lữ Giang, HK 1994, trang 197.
- Nội san "Luyện Thép" của giáo dân Vinh di cư, số 4, năm 1956.
- Bài nghiên cứu của N.L. Hénard trong Tạp chí BEFEO (Bulletin de l'École Francaise d'Extrême Orient, số 75.

Lm JB. Nguyễn Hữu Thy
(CHLB Ðức 2006)

21 nhận xét:

  1. Nhưng Liên Thành có mô tả nơi trang 6 – 7 cuốn "Biến Động Miền Trung" như sau:
    ...Ai đã từng ở Huế cũng đều biết vị trí của tòa Đại Biểu Chính Phủ nằm trên đường Lê Lợi, đối diện với ngôi trường Luật của Viện Đại Học Huế. Sát bên bờ sông Hương cạnh tòa Đại Biểu. Mặt sau của Bộ Chỉ Huy Tỉnh Đoàn Xây Dựng Nông Thôn có một ngôi biệt thự trang nhã,....chính là Bộ Chỉ Huy một Cơ Quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, chỉ huy và điều khiển những Điệp Vụ miền Bắc với nhiệm vụ phá rối chính trị, tổ chức và phát động những phong trào nhân dân nổi dậy chống đối chính quyền Hà Nội....



    ....Người này thoạt nhìn khuôn mặt khó đoán được tuổi tác là bao nhiêu 30, 35, 40 tuổi ?Nhỏ người dáng dấp thư sinh, nói giọng khó nghe, xuất phát từ Nghệ An, Hà Tĩnh.....chính là ông Phan Quan Đông, người chỉ huy một cơ quan Tình Báo Tối Mật của Quốc Gia, với những Điệp Vụ phía Bắc vĩ tuyến 17....một bông Hồng hiếm quý của Tình Báo miền Nam...


    ....Đạo diễn chính vụ nhân dân Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nổi dậy chống chính quyền Miền Bắc vào năm 1956 là một thí dụ điển hình công tác và nhiệm vụ của cơ quan này...


    Giáo dân Quỳnh lưu nổi loạn, năm 1956, do Phan Quang Đông đạo diễn

    Trả lờiXóa
  2. Vài lời bình:

    - Phật tử mà gọi là giáo dân, "81 tuổi, sức khoẻ không dồi dào như trước nhưng trí nhớ còn sắc bén" kiểu gì kỳ vậy?

    Trả lờiXóa
  3. Nên nói đi nói lại như vầy để đảm bảo tính trung thực..:)

    Trả lờiXóa
  4. Nhà văn Phạm Viết Đào tiếp tục "sự nghiệp" bóc trần sự thật của CSVN:



    "> “ÔNG CỐ VẤN” VŨ NGỌC NHẠ-HỒ SƠ LẬP TỪ PHÍA BÊN KIA ( Phần 1 )


    Phamvietdao.net: Vũ Ngọc Nhạ tức "Vũ Ngọc Long- Hai Long" là người chỉ huy Cụm tình báo A 22 nổi tiếng; Nhà văn Hữu Mai đã viết cuốn Ông cố vấn ghi theo lời kể của Tướng Vũ Ngọc Nhạ…

    Tác giả Trần Trung Quân đã gửi cho loạt bài nhiều kỳ ghi lại một số thông tin về các hoạt động của ông Vũ Ngọc Nhạ; tuy tác giả không ghi nguồn nhưng qua thông tin thấy: rất có khả năng tác giả đã được sự cung cấp từ phía ông Dương Văn Hiếu, trùm mật vụ miền Trung dưới thời ông Ngô Đình Diệm, người đã theo dõi và tổ chức bắt giữ, hỏi cung ông Vũ Ngọc Nhạ…

    Theo những thông tin trong loạt bài này, Ngô Đình Nhu và Dương Văn Hiếu đã biết rõ từ đầu Vũ Ngọc Nhạ là tình báo viên của quân báo miền bắc, sở dĩ Dương Văn Hiếu và Ngô Đình Nhu bắt Vũ Ngọc Nhạ sau đó lại thả ra là do biết Vũ Ngọc Nhạ là một tình báo chiến lược, họ muốn tương kế tựu kế, sử dụng Vũ Ngọc Nhạ làm “gián điệp kép” để thông tin hai chiều…

    Xin đưa lên mạng loạt bài viết này để chúng ta cùng đối chiếu, kiểm chứng 2 chiều về các thông tin trong cuốn Ông cố vấn liên quan tới nhà tình báo chiến lược lỗi lạc Vũ Ngọc Nhạ…Biết đâu, Ông cố vấn là “dương bản” và những thông tin do tác giả Trần Trung Quân cung cấp là “âm bản”…về một con người hoạt động trong môi trường phức tạp, đăc thù, môi trường tình báo…


    Xin quý vị coi đây là một "sản phẩm" của văn học...

    http://phamvietdao2.blogspot.com/2011/11/ong-co-van-vu-ngoc-nha-ho-so-lap-tu.html

    Trả lờiXóa
  5. Về cuộc nổi loạn của bọn phản động ở Huyện Quỳnh Lưu, chống cộng có 5 bài viết, trong đó hai bài cung cấp nhiều chi tiết là: Việt Nam Giáo Sử Quyển II của LM Phan Phát Huồn do Cứu-Thế Tùng Thư xụất bản năm 1962, và của tác giả Cẫm Ninh phát hành trên mạng “Toàn Dân Lên Tiếng” ngày 4 tháng 8 năm 2009 (mà nhà văng Phạm Viết Đào đã thuổng đăng trên bờ nhốc của ông ta).Nội dung hai bài nầy rất giống nhau. Do dó, phần tác giả Cẫm Ninh tôi chỉ trích đoạn để bổ túc cho phần của LM Phan Phát Huồn.

    Trong diễn Đàn Ba Cây Trúc cũng có bài viết:”Kinh Nghiệm Lịch Sử Qua Cuộc Khởi Nghĩa Quỳnh Lưu 1956” của ông JB Nguyễn Văn Định thuộc Giáo họ Yê Lưu, xứ Thuận Nghĩa Giáo phận Vinh. Bài viết nầy cũng không khác gì mấy với hai bài của LM Phan Phát Huồn và Cẫm Ninh Ngoài ra. Con có ba tác giả khác cũng viết giống chủ đề, nhưng ngắn gọn hơn là Hoàng Ngọc Thành, Bùi Anh Trinh và Hoàng Văn Chí.

    LM Phan Phát Huồn: Tại phần tiểu đề:”Quỳnh Lưu đẫm máu (1956)” từ trang 74 đến trang 78 - trích lại nguyên văn kể cả những lổi sai chánh tả. Theo phần chú thích của tác giả LM thì bài viết nầy được phỏng theo các tài liệu: Thanh-hải: Đ.M.H.G.G và H B. Quỳnh-Lưu khởi nghĩa của nhà xuất bản Thanh-Hương-Sơn, vì những chữ viết tắc trong sách LM trích dẫn không được chú thích và tôi cũng không hiểu nên xin để nguyên vẹn như thế để độc giả tùy hiểu. LM Phan Phát Huồn là nguyên là Trung Tá Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Công Giáo Quân Lực VNCH, tác giả bộ sách Việt Nam Giáo sử và nhiều bộ sách về Thần Học. Hiện LM đang là Tu sĩ thuộc Giòng Chúa Cứu Thế.

    “Lúc cái quái thai ”Nghị quyết sửa sai”ra đời, toàn thể nhân dân tỉnh Ngệ An đưa các thành phần giai cấp trong xã hội, các thanh thiếu niên thuộc các xã Quang trung, Tân Nho, Diễn Tân, Vạn Kim, Diễn Đức, Diễn Đông,, Diễn Nguyên, Minh Châu và các xã Đức Vinh, Hồng Thăng, Đại Gia, Yên Trung mở đại hội để tháo mở hết các phẩn nộ, tuôn hết những uất ức mà 10 năm chôn chặc trong tiềm thức trong đáy lòng họ. Trong cuộc đại hội ầy, nhân dân các xã nói trên mời cả Việt cộng thuộc cấp tỉnh và huiyện đến tham dự để chứng kiến cái tinh thàn đấu tranh đòi tự do của nhân dân.

    Tại đại hội, nhân dân dũng cảm đứng lên công kích hành động phản dân phá đạo của ngụy quyền Hồ chí Minh và họ đã đồng thanh lập kiến nghị sau đây:

    a-/ Yêu cầu trả lại cho chúng tôi những vụ linh mục chánh sở và tất cả những vị giáo sĩ bị bắt bớ giam cầm.

    b/- Yêu cầu trả lại cho chúng tôi xác các vị linh mục đã bị hành quyết và của những vị đã bị thủ thiêu.

    c./- Yêu cầu trả lại những tài sản của địa phận, của thánh đường, của Đức Mẹ đã bị chính quyền tịch thu xung công.

    d./ Yêu cầu đền bồi thanh danh của các giáo sĩ đã bị nhục mạ và danh dự của các giáo hữu đã bị vu khống.

    Toàn thể nhân dân ở đại hội hòan tòan đồng ý thông qua và đồng ký, riêng các ủy viên Việt Cộng thì lầm lì căm tức trước những lời kết án cương quyết hùng hồn đanh thép của toàn thể đại hội. Ban đầu chúng nhất định không ký, nhưng với áp lực của hàng nghìn tinh thần cương quyết làm cho chúng đành phải ký vào quyết nghị.

    Họ viết tờ báo cáo đầy đủ chi tiết đánh máy ra làm bốn bản; một bản để trình Tòa Thánh, nhờ sự trung gian của Đức Khâm sứ Dooley, một trao cho Ủy Hội Quốc tế kiểm soát đình chiến, một gởi cho chủ tịch Hồ chính (chí) Minh.và một gởi cho chính quyền quôc gia miền Nam. Người ta đã tìm đủ mọi cách để chận đứng báo cáo ấy không cho lọt vào tay Ủy hội Quốc Tế kiểm sóat đình chiến."

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Dân chúng không bị lừa đảo nữa, họ áp dụng phương pháp lấy gậy ông đập lưng ông, nhân dân quyết tâm vịn vào quyết nghị Sửa sai của đại hội thứ 10 trung ương đảng Cộng sản để đòi lại chồng con đã bị giết, đòi lại tài sản đã bị tịch thu, đòi lại những cái gì đã bị Việt cộng cướp giật trong 10 năm kháng chiến và vịn vào mục đích đi lại trong bản nghị quyết để đòi Việt cộng phải cho họ di cư vào Nam. Khổ quá rồi, trong 10 năm qua, bây giờ người ta không muốn khổ nữa, người ta muốn được áo ấm cơm no, nhưng Việt cộng chỉ ban hành danh từ sửa sai chứ chẳng chịu san bớt phần ăn cho các dạ dày trống rỗng, do đó uất hận càng tràn ngập nông thôn. Người ta quyết tâm tìm mọi lối thoát khỏi thiên đường Cộng sản. Nhân dân đâu đấy đã viết đơn sẳn sàng chỉ chờ dịp là trao cho Ủy-hội Quốc -ế, để đòi Ủy -ội phải can thiệp để cho họ bỏ làng, bỏ nước, bỏ mồ mã ông bà cha mẹ, khăn gói ra đi lập lại cuộc đời bên kia bờ bến Hải.

      Giữa lúa đó, được biết chiều ngày 9.11.1956, Ủy-hội Quốc-Tế sẽ đi qua Cầu Giát, để về Thủ-đô Hà-Nội, hằng ngàn người đã kéo ra đường số 1 chờ đợi. Đồng bào góp đơn lại giao cho 6 thanh niên đứng ra đại diện họ. Sợ lỡ dịp tranh đấu, mấy ngàn đồng bào đã nằm xuống chắn ngang, xe vừa hãm bánh thì đồng bào đứng ngay dậy, 6 thanh niên đại diện trao cho Ủy hội mấy vạn bức thư chất đầy 3 bao bố. Sĩ quan Ấn-độ nói với đồng bào: Ông chỉ thuộc về tiểu ban lưu động không có thẩm quyền giải quyết việc nầy, nhưng ông sẽ đem về Hà Nội cho Trung ương ủy hội quyết định, thứ bảy sẽ trả lời.

      Sau khi đó, hàng vạn tấm lòng được cởi mở, họ sung sướng sắp ra khỏi thiên đàng của Cộng sản. Họ tin tưởng ở ủy hội.

      Trên dưới một vạn dân lành đã tập trung ở làng Cẩm trường mở cuộc hội nghị để chờ ngày thứ bảy.. Mấy ngày đêm họ bàn tán xôn xao. Họ liên hoan chiến thắng, họ ước mơ một trời Nam lộng gió, một trời Nam ngập tràn ánh sáng và tự do,nơi đó họ sẽ xây đắp cuộc đời của họ đã héo tàn bên kia bờ vĩ tuyến…

      Giữa lúc hàng vạn người đang say xưa với ngày mai huy hoàng thì một tin làm tắt hẳn ánh sáng hi vọng đang cháy rừng rực trong tâm hồn họ: Quân đội Việt cộng hợp lực với Công an mang súng về giải tán họ, nhất định không cho họ di cư vào Nam, cuộc ấu đả bắt đầu.

      Hàng vạn đồng bào tay không đánh nhau với hai đại đội vũ trang Việt cộng, súng nổ, lưu đạn tung rền đất, Cộng sản quyết tâm tiêu diệt đồng bào, đồng bào lớp nầy ngã gục, lớp kia tràn lên xông vào tầm súng của địch. Trong khi đồng bào đang chiến đấu thì các bà mẹ đánh trống chí tử để kêu gào những làng chung quanh hãy đem quân sang tiếp viện, nhân dân các làng tiếp viện bủa vây, thành một vòng khép chặt Cọng sản lại làm cho chúng tiến thóai lưỡng nan. Trước tình thế nguy ngập ấy, cộng quân một mặt liên lạc cầu viện binh, một mặt kêu cứu với Đức Giám mục Trần hữu Đức, nhờ ngài giải quyết cho, nhưng ngài đã trả lời:

      – Tôi không biết về vấn đề chính trị, vì tôi là một nhà tu hành.

      Nhân dân các nơi góp tiền, góp gạo gởi về giúp nghĩa quân. Sáng ngày 13.11.1956, nghĩa quân toàn tỉnh tập họp tại Quỳnh Lưu, tổ chức cuộc biểu tình thị uy lực lượng và để đả đảo hành động dã man của cộng sản, họ hô lên các khẩu hiệu:

      Luơng giáo đoàn kết chặt chẽ sau lưng nghĩa quân.

      Lương giáo quyết tâm chống cộng sản khát máu.

      Tinh thần Quỳnh Lưu bất diệt

      Cuộc tuần hành kéo đến trước cửa ty Công an Nghệ an, nhưng Công an Việt cộng đã cao bay xa chạy từ bao giờ rồi, các nghĩa quân thi nhau nhảy lên nóc nhà ty Công an, xé tan cờ đỏ sao vàng, đập vỡ những bức ảnh của bọn trùm đỏ. Xong cuộc biểu dương lực lượng , họ lại kéo nhau về Cẩm trường để chuẫn bị cuộc đấu tranh với Việt cộng."

      Xóa
    2. "Đêm 13.11.1956 đã có 3.000 thanh niên từ các làng Do Xuyên, Ba Làng, và Nông cống thuộc tỉnh Thanh hóa bí mật kéo vào, mang theo nhiều tiền và gạo để cùng nghĩa quân trường kỳ kháng chiến, Trong những đêm liên hoan, người ta đã nghe vọng lên những câu hát của các cô thôn nữ trong khắp các nẻo đường Quỳnh lưu:

      “ Anh đi giết giặc lập công,

      Con thơ em gởi mẹ bồng,

      Để theo anh ra tiền tuyến,

      Tiêu diệt đảng cờ Hồng,

      Ngày mai giải phóng,

      Tha hồ ta bế ta bồng con ta.

      Chính lúc nghĩa quân chuẫn bị, Việt cộng đem quân bao vây Quỳnh lưu. Phụ lão đem con đi tản cư, ban chỉ đạo nghĩa quân về hầm nghiên cứu trận địa và chỉ huy tác chiến; thanh niên, thanh nữ, thiếu nhi mang lựu đạn, giáo mác, gậy gộc ra bảo vệ làng. Nghe tin 20.000 nhân dân ở Thanh hóa Nghệ an kéo đến cứu viện nghĩa quân Quỳnh lưu, ngụy quyền Việt cộng thấy nguy, truyền cho tướng Văn tiến Dũng huy động các lực lượng quân sự ở Thanh Hóa, Phủ Qùy và Đồng Hới để tiêu diệt nghĩa quân Quỳnh lưu.

      Trước sức hùng hổ đó, nông dân vẫn quyết tâm tử chiến để bảo vệ căn cứ. Lịnh của ban chỉ đạo nghĩa quân được truyền vang như sấm:”Hãy chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để giải phóng dân tộc.

      Nhưng vì vũ khí quá thô sơ, nghĩa quân phải rút vào rừng sâu. Lúc cuộc đánh kết liểu Việt cộng xông vào các làng Thanh Dạ, Song ngọc, Cẩm trường bắt tất cả già trẻ lớn bé, đàn bà con nít giải đi, Nhà cầm quyền tra khảo để biết đích danh những người cầm đầu nhưng vô hiệu quả, mọi người dầu (đều) vỗ ngực tự xưng:”Tôi lãnh đạo cách mạng” ngay đến các em bé chín, mười tuổi mà cũng dõng dạc xưng :”chính tôi đứng lãnh đạo công cuộc cách mạng “ Bối rối, ngụy quyền phải trả tự do cho nhân dân nhưng Hồ chí Minh đâu có chịu thua, ông ra lịnh cho cán bộ vế bắt Linh mục xứ Cẫm trường và Song ngọc áp giải lên Hà nội, Linh mục Hậu và Linh mục Đôn cực cực phản đối:”Chúng tôi là nhà tu hành, chúng tôi không biết gì đến việc nhân dân”.Nhưng Việt cộng đâu có thèm nghe. Sau cùng trước họng súng đen ngòm, trước lưỡi lê tàn bạo, Linh mục Hậu và Linh mục Đôn phải để cho cán bộ kéo sườn sượt lên xe molotova bít kín chở về Hà nội..Chúng bắt hai Linh mục bước lên đài vô tuyến truyền thanh đổ lổi trên đầu nhân dân tất cả. Hai Linh mục không bằng lòng, Việt cộng đe dọa Linh mục Hậu, Linh mục Đôn không chịu nói, Việt cộng đổ lổi cho hai Linh mục đứng lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của nông dân. Chúng tìm đủ mọi cách để cưỡng ép các Linh mục phải nói theo chúng. Nghĩ đến chuyện Linh mục Tấn bị thủ tiêu ở Phủ quỳ, hai Linh mục ghê sợ đành phải tán tận lương tâm tuyên bố ngược lại sự thật Linh mục Hậu và Linh mục Đôn vừa khóc vừa nói trong nghẹn ngào đứt quãng."

      Xóa
    3. 2/ Phần của tác giả Cẫm Ninh phát hành trên blog “Toàn Dân Lên Tiếng” ngày 4 tháng 8 năm 2009 (mà nhà văng Phạm Viết Đào đã thuổng đăng trên bờ nhốc của ông ta).

      04 August 2009

      Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu, Nghệ An, 1956


      Thời gian cũng đủ chứng minh CSVN không thể trả lời. Nhưng người dân VN có thể sẽ tự trả lời khi cao trào thèm khát cuộc sống tự do dân chủ tới hồi chín muồi. Tiếng trống bi hùng của đồng bào Quỳnh Lưu 60 năm về trước vẫn còn vọng về thúc giục người có lòng ái quốc, thương nòi trong chúng ta. Bài hát vang trong bầu trời Quỳnh Lưu như nhắn nhủ gọi người can trường đi tìm chân lý của cuộc sống : con người sinh ra phải được tự do.

      Cẩm Ninh

      Năm 1956, cuộc nổi dậy của đồng bào huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, là 1 cuộc đấu tranh đẫm máu chống lại chính sách cai trị dã man của lãnh đạo CSVN, mà qua đó, chính sách Cải Cách Ruộng Ðất đã là nguyên nhân chính làm bùng nổ cơn phẫn nộ của người dân. Cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị đảng CSVN bưng bít tin tức rất kỹ vì tầm mức ảnh hưởng nguy hiểm của nó; trong khi cuộc đấu tranh của các văn nghệ sĩ trong biến cố Nhân Văn Giai Phẩm may mắn hơn, được loan tin vào miền Nam VN thời bấy giờ, với những tư liệu lịch sử rất có giá trị.

      Nhưng không vì thế mà cuộc nổi dậy Quỳnh Lưu bị chôn vùi với nỗi oan khiên của những nạn nhân đã chết. Một số nhân chứng hiếm hoi đã kể lại, viết lại để các thế hệ tiếp nối hiểu được những gì xảy ra dưới chế độ XHCN. Tội ác của lãnh đạo CSVN không thể đếm bằng số người dân đã chết. Tầm mức [mục đích] của tội ác đã đi ra khỏi Giới hạn suy nghĩ của lòai người.

      Sau đó, ngày 10-11-1956, khoảng 10.000 nông dân đã mở đại hội lần thứ hai tại xã Cẩm Trường để bàn thảo về ngày thứ Bảy. Mọi người đều tỏ ra hân hoan khi biết sắp sửa từ bỏ địa ngục trần gian. Nhưng ngay lúc đó, CSVN đã điều động 2 đại đội chủ lực và 1 đại đội công an võ trang huyện Diễn Châu về xã Cẩm Trường để giải tán đại hội nông dân. Bạo động đã xảy ra. Tiếng súng và lựu đạn nổ vang trời. Mặc dù tay không nhưng khí thế quần chúng quá mạnh, những người phía sau đã tràn lên thay cho Những người gục ngã phía trước.

      Cuối cùng, dân chúng đã bao vây đồn bộ đội, công an vào giữa. Ðêm hôm đó, CS đưa thêm 2 trung đoàn về bao vây 10.000 nông dân tại xã Cẩm Trường. Dưới cơn mưa phùn lất phất cuối đông, cảnh tượng bi hùng đã diễn ra ở 1 trận địa giữa 10.000 nông dân và 2 vòng trong ngoài đầy những công an và bộ đội. Tờ mờ sáng này 11-11-56, các bà mẹ đã đánh trống, mõ kêu gọi dân chúng quanh vùng đến tiếp cứu. Xã Diễn Châu như bị động đất. Rồi 30.000 nông dân kéo đến vây phía ngoài 2 trung đoàn chính quy của CS, trở thành 1 vòng bao vây thứ tư. Cuộc nổi dậy bộc phát quá lớn, quá mau, đã đi ra ngoài sự tiên liệu của cả 2 bên. Hồ Chí Minh rất căm hận biến cố này vì Nghê An là quê quán của ông ta, nhưng Hồ Chí Minh chưa biết cách giải quyết thế nào để gỡ thể diện cho mình và đảng. CS cũng tìm cách liên lạc với Giám mục Trần Hữu Ðức nhờ ông giải quyết, nhưng ông đã trả lời: “Tôi không biết về vấn đề chính trị, vì tôi là nhà tu hành”. Lúc bấy giờ, phía dân chúng đã có 1 số lượng vũ khí đáng kể, tịch thu được từbộ đội. Chưa bao giờ 1 cuộc nổi dậy ở miền Bắc lại có đủ tất cả thành phần dân chúng, kể cả các đảng viên CS.

      Ðêm 11 rạng ngày 12-11-1956, một số nghĩa quân lén trở về Quỳnh Lưu để tổ chức biểu tình yểm trợ cho dân quân xã Diễn Châu. Ðêm hôm đó, 3000 thanh niên các xã Do Xuyên, Ba Làng và Nông Cống (tỉnh Thanh Hóa) đã kéo vào yểm trợ nghĩa quân. 4g sáng cùng ngày, một Ủy Ban Biểu Dương Lực Lượng Nông Dân Quỳnh Lưu và Ủy Ban Tiếp Tế Nghĩa Quân được thành lập. Phụ nữ, trẻ em đã mang gạo, thực phẩm đến xã Cẫm Trường , nơi cuộc đấu tranh đã bước vào ngày thứ 3 ……………………………

      Xóa
    4. Cuộc biểu tình đã tuần hành tiến về Ty Công an Ngệ An, hô thật to những khẩu hiệu: “Lương giáo đoàn kết chặt chẽ sau lưng các nghĩa quân”, “Lương giáo quyết tâm chống CS khát máu”, “Tinh thần Quỳnh Lưu bất diệt”… Công an tỉnh lẩn trốn từ lâu trước khí thế này. Dân chúng thi nhau nhảy lên nóc Ty Công an, xé tan cờ đỏ sao vàng, đạp vỡ ảnh HCM và các lãnh tụ CS quốc tế.

      Trước tình hình này, Hồ Chí Minh ra lịnh cho Văn Tiến Dũng điều động Sư đoàn 304 từ Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Ðồng Hới về bao vây nghĩa quân. Sư đoàn này quy tụ nhiều bộ đội miền Nam tập kết mà Hồ Chí Minh muốn xử dụng, thay vì dùng bộ đội sinh quán ở miền Trung hoặc miền Bắc, để có dịp trút tội cho binh đoàn miền Nam nóng tính này. Trận địa tại xã Cẩm Trường đã lên đến 5 vòng đai giữa dân quân và VC.

      Buổi chiều cùng ngày, nghe tin dân quân xã Cẩm Trường bị Sư đoàn 304 vây, gần hàng chục ngàn người đã tiến về xã Cẩm Trường để tiếp cứu. Vòng đai chiến trận đã tăng lên lớp thứ 6. Buổi tối ngày 13-11-1956, hơn 20.000 nông dân từ Thanh Hóa lại kéo vào tiếp viện, mang theo đầy đủ lương thực, tính kế trường kỳ đấu tranh.

      Ngày 14-11-1956, Văn Tiến Dũng huy động thêm Sư đoàn 312 vào trận địa quyết tiêu diệt nhân dân Quỳnh Lưu. Khi vòng đai thứ 7 thành hình, Hồ Chí Minh ra lịnh tiêu diệt cuộc nổi dậy có một không hai trong lịch sử đấu tranh chống VC. Trước bạo lực đó, nông dân vẫn cứ quyết tâm tử chiến để bảo vệ căn cứ. Lịnh của ban chỉ đạo nghĩa quân được truyền đi : Chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để giải phóng dân tộc.

      Nhưng vì vũ khí quá thô sơ, nghĩa quân phải rút vào rừng sâu. Sau khi trận chiến kết thúc, quân đội VC đã xông vào các làng Thanh Dạ, Song Ngọc, Cẩm Trường bắt tất cả già trẻ lớn bé giải đi. Họ tra khảo từng người để tìm ra ban chỉ đạo đấu tranh nhưng vô hiệu, vì bất cứ ai, kể cả các em thiếu nhi, đều tự xưng là người lãnh đạo cuộc cách mạng này. Không bắt được ai, VC đành thả bà con ra về, nhưng Hồ Chí Minh tính kế bắt đi Linh mục Hậu và Linh mục Ðôn của 2 xứ Cẩm Trường và Song Ngọc. Dù 2 vị này đã nói: “Chúng tôi là nhà tu hành, chúng tôi không biết gì đến việc nhân dân”, Nhưng cũng bị công an kéo lê lên xe giải về Hà Nội.

      CS bắt 2 vị linh mục phải lên đài phát thanh đổ lỗi cho giáo dân và nông dân, nhưng 2 vị không băng lòng. CS đe dọa nếu không tuyên bố như vậy thì sẽ giáng tội cho 2 vị là những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa phản động này. Họ mang hình ảnh Linh mục Tấn bị thủ tiêu ở Phủ Quỳ ra dọa nạt. Cuối cùng , 2 vị phải tuyên bố ngược lại sự thật.

      Dù nhà cầm quyền CS vẫn cố tình che giấu, xuyên tạc cuộc nổi dậy của nhân dân Quỳnh Lưu cho đến ngày hôm nay, dù họ đã dùng bạo lực đàn áp, giết chóc và đày ải hơn 6.000 nông dân trong biến cố Quỳnh Lưu, nhưng tinh thần yêu nước, can trường của người dân các tỉnh miền Trung nói chung, và ở tỉnh Nghệ An nói riêng, đã soi sáng cho các thế hệ sau con đường chính nghĩa để đòi lại tự do.

      Người CS rồi sẽ không thể nào dùng những bàn tay giết người che lấp nổi mặt trời. Những việc làm của họ rồi sẽ được phơi bày ra ánh sáng.

      Ðòi cho bằng được tự do, công bằng, quyền căn bản của con người không thể xem là một cái tội. Dùng bạo lực để áp đặt một tội danh là gieo nỗi oan khuất cho cả một dân tộc. Nỗi oan khuất đó đã chồng chất đến trời xanh. Nói về những nỗi oan sống dưới chế độ CS thì không biết bao nhiêu mà kể Với những nỗi oan của những người đã chết, oan khiên đeo nặng những người còn sống, đảng CSVN đã giải quyết ra sao ? chỉ là sự im lặng.

      Xóa
    5. 3/ Hoàng ngọc Thành:

      Trong quyễn “Công Và Tội Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Và Đảng Cộng Sản Việt Nam 1945 – 2006 Lịch Sử Hiện Đại Việt Nam của tác giả Hòang Ngọc Thành Ph.D. Giáo Sư Tiến Sĩ Sử Học Nguyên Trưởng Ban Sử Địa và Cao Học Sử Đại Học Sư Phạm Sài Gòn do nhà Xuất bản Nghĩa Phú tại San jose California xuất bản năm 2009, tại phần 5 của tiểu đề Mức chống đối trang 531 tác giả cho biết về vụ nổi dậy Quỳnh Lưu như sau:

      “Tiêu biểu cho sự chống đối của dân Miền Bắc là vụ nổi dậy tại Huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An quê hương của chủ tịch HCM. Vào đầu tháng 11-1956, khi mà thời hạn rút quân đi và tiếp thu các vùng đã thực hiện xong trong 300 ngày theo hiệp định Geneva, tháng 7-1954. Vụ nầy được tiết lộ ra thế giới là nhờ sự hiện diện của một nhân viên Canada của Ủy Hội Quốc Tế kiễm Soát Đình Chiến. Nông dân đã bao quanh xe jeep của ông nầy và đưa các thỉnh nguyện xin di cư vào Nam theo hiệp định Geneva. Quân đội cộng sản can thiệp ngăn chận và bắt giữ những người đòi đưa thư thỉnh nguyện di cư vào Nam. Ngay đêm hôm ấy, nông dân nổi dậy trong xã ấy và các xã khác trong huyện Quỳnh Lưu. Từng đòan người kéo đi về tỉnh lỵ Vinh của tỉnh Nghệ An để đòi đi vào Nam. Tác giả Bernard Fall đã so sánh cuộc nổi dậy nầy giống như các cuộc biểu tình chống thực dân Pháp trong năm 1930.

      HCM và đảng cộng sản vội biệt phái đại đoàn 325 đến dẹp cuộc nổi dậy một cách tàn bạo và dã man. Cũng theo Bernard Fall, gần 6 nghìn nông dân bị giết hay bị bắt giữ, đưa đi đày tại các vùng núi non xa xôi. Chế độ giấu kỹ vụ nổi dậy nầy nếu không có sự hiện diện của thành viên Canada trong Ủy Ban Kiễm Soát Đình Chiến. Sự đàn áp man rợ vụ nổi dậy nầy không được dư luận Quốc tế quan tâm đúng mức vì tình hình thế giới có những sự kiện “giật gân” hơn như vụ quân Anh, Pháp nhảy dù xuống chiếm kênh Suez, Ai Cập, vụ quân đội xô viết dẹp công nhân nổi dậy ở Poznon, Ba Lan, và tràn vào chiếm Hungary để lật đổ chính phủ Nagy-Maleter.

      Xóa
    6. 4/Bùi Anh Trinh:

      Tác giả Bùi Anh Trinh trong tác phẩm khảo luận Bối cảnh Lịch sử Chính Trị Việt Nam Cận Đại & Hiện Đại phần Chuyện Nước Non Đau Lòng Tới Ngàn Năm tập Thượng do Làng Văn xuất bản tại Gia-nã-đại năm 2008 trang 822 phần có tiểu đề Vụ nổi dậy của dân chúng Nghệ An ghi nhận như sau:

      Năm 1956, ngày 2-11, dân chúng tỉnh Nghệ An chận đường một xe của Ủy Hội Quốc Tế Kiểm sóat đình chiến đưa đơn xin can thiệp cho được di cư vào Nam. Một bộ đội dùng báng súng để giải tán dân làng nhưng bị dân chúng đánh trả và tước mất súng. Người bộ đội trở lại với một số đồng đội nhưng bị nông dân kéo ra đông hơn chống trả kịch liệt. Tới chiều nông dân kéo tới càng đông và chuẫn bị kéo nhau lên tỉnh biểu tình. Hà Nội đưa Đại doàn 325 đến dẹp loạn, số người bị giết và bị bắt lên đến 6.000nguời. Ủy hội Quốc tế kiểm sóat đình chiến đánh động việc nầy với dư luận Thế giới; nhưng lúc nầy trùng hợp với vụ quân đội Liên Xô đàn áp nhân dân Hungaria nổi dậy chống Cộng sản, và vụ Tổng thống Ai cập cho phong tỏa kênh đào Suez cho nên dư luận thế giới không mấy chú ý đến vụ nổi dậy tại hai huyện Quỳnh Lưu và Đo Lương thuộc tỉnh Nghệ An.

      Xóa
    7. 5/ Hoàng Văn Chí:

      Ông Hoàng văn Chí ghi lại những tài liệu lịch sử cận đại trong tác phẩm viết bằng Anh ngữ:”From colonialism ta communism” và nhà văn Mạc Định dịch sang Việt ngữ dưới tên:“Từ Thực Dân Đến Cộng Sản” và được tác giả phụ chú thêm là: ”Một kinh nghiệm lịch sử của Việt Nam” sách được dịch sang khoảng 15 thứ tiếng như Bồ Đào Nha, I-pha-Nho, Nh, Pháp.v…v… Riêng bản tiếng Việt được nhà xuất bản Chân trời mới xuất bản năm 1964.

      Trong vụ biến động Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An năm 1956, ông Hòang văn Chí ghi nhận sự việc ấy như sau:

      Vì thấy Đảng tuyên bố “sửa sai” mà không hề “sửa” những sai lầm căn bản, nên tại nhiều nơi, dân chúng thất vọng, trở nên công phẩn và nổi lọan thực sự. Có tin tại nhiều nơi (Bắc Ninh, Nam Định, v…v…) dân chúng nổi dậy, nhưng theo nguồn tin chính thức của Đảng thì “nhờ có sự khéo léo của quân đội nên đã tránh được nhiều vụ nghiêm trọng” .”Sự khéo léo của quân đội ” có nghĩa là trong mỗi nhá nông dân có ba người lính đến ở nhờ. Nhưng tháng 11 năm 1956, báo chí của Đảng cũng phải công nhận ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An có một cuộc võ trang khởi nghĩa. Cách đấy ít lâu, một số người trong nhóm khởi nghĩa thất bại trốn thoát bằng thuyền vào Nam đã kể lại cho báo chí biết rõ chi tiết về vụ Quỳnh Lưu. Họ nói chừng hai chục ngàn nông dân chỉ có gậy gộc đã chống chọi với một sư dòan quân chíng quy.

      Và tác giả đã đau buồn kết luân rằng “Sự thực thì dưới chế độ cộng sản không thể có một cuộc nội loạn nào có cơ thành công được”

      Xóa
    8. Trong 6 tác giả nói lại biến cố Quỳnh Luu, chúng ta thấy có những chi tiết cần lưu ý :

      Theo LM Phan Phát Huồn và tác giả Cẫm Ninh thì nhân viên Ủy Hội Quốc Tế Kiễm Soát Đình Chiến là người Ấn Độ, tác giả Hòang ngọc Thành là người Canada, tác giả Bùi Anh Trinh và Hòang văn Chí không nói là người nuớc nào.

      Hòang văn Chí tiết lộ một chi tiết:” Cách đấy ít lâu, một số người trong nhóm khởi nghĩa thất bại trốn thoát bằng thuyền vào Nam đã kể lại cho báo chí biết rõ chi tiết về vụ Quỳnh Lưu”.

      Xóa
  6. VỤ XUÂN HÀ - TANG ĐIỀN: http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=1305aWQ9Mjg4NSZncm91cGlkPTMma2luZD0ma2V5d29yZD0=&page=3

    Vụ bạo loạn do linh mục Hoàng Quỳnh chủ mưu, xảy ra năm 1947 tại 2 xã Xuân Hà, Tang Điền, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Tại các xã có tập trung đông đồng bào theo đạo Thiên Chúa thuộc huyện Hải Hậu, các phần tử phản động lợi dụng đạo Thiên Chúa thường lợi dụng hoạt động tôn giáo để lôi kéo, kích động giáo dân, tập hợp lực lượng, chống phá cách mạng. Từ tháng 2.1947, bắt đầu từ những hoạt động lẻ tẻ gây rối an ninh, trật tự, chia rẽ lương, giáo, các phần tử phản động lợi dụng đạo Thiên Chúa ở xã Tang Điền đã đi đến những hoạt động có tổ chức: lập lực lượng vũ trang, rào làng chiến đấu, bắt giết cán bộ, nhân viên nhà nước đến địa phương công tác, kích động nhân dân biểu tình chống nộp thuế muối, gây rối loạn ở địa phương. Bọn phản động lợi dụng đạo Thiên Chúa ở xã Xuân Hà cũng liên tiếp gây rối, đã bắt và sát hại dã man đồng chí huyện đội phó và 4 cán bộ khác, bắt giam đồng chí chủ tịch và phó chủ tịch xã, tập hợp giáo dân, lập lực lượng vũ trang. Chỉ trong thời gian ngắn, bọn phản động ở hai xã đã bắt giữ 6 người, thủ tiêu 10 người, trong đó có 5 người bị chúng chặt đầu. Sau một thời gian kiên trì vận động, thuyết phục, tuyên truyền chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Chính phủ, lực lượng công an, quân đội đã tiến hành truy bắt bọn phản động và dập tắt vụ bạo loạn (21.9.1947). Tòa án Quân sự Hà Nội kết hợp với Toà án Khu II và Khu X đã mở phiên tòa xét xử và tuyên án tử hình 4 tên, phạt tù từ 5 đến 20 năm đối với 11 tên khác.

    Một vết nhơ khác trong lịch sử: có đầy đủ thông tin xác nhận chuyện chặt đầu mổ bụng (trang web của chính phủ hẳn hoi đấy)

    VỤ PHÚC NHẠC: http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=131AaWQ9Mjg3NiZncm91cGlkPTMma2luZD0ma2V5d29yZD0=&page=3

    vụ bạo loạn do các phần tử phản động lợi dụng đạo Thiên Chúa gây ra vào tháng 10.1947 tại xứ đạo Phúc Nhạc, thuộc địa phận Phát Diệm, tỉnh Ninh Bình. Cầm đầu là linh mục Phạm Ngọc Lý, giám đốc Chủng viện Phúc Nhạc, cha chính địa phận Phát Diệm. Để làm nội ứng cho quân đội xâm lược đánh chiếm vùng tự do khi có cơ hội, các phần tử phản động lợi dụng đạo Thiên Chúa đã tuyên truyền chống phá cách mạng, lôi kéo giáo dân lạc hậu vào các hoạt động bạo loạn, chống lại chính quyền. Chúng đã tổ chức lực lượng vũ trang, rào làng, biến nhà thờ thành pháo đài chống Cộng, tổ chức hàng chục vụ cướp, bắt cóc, tống tiền, đã bắt giết 32 người bằng cách cắt tiết, chặt đầu, chôn sống... trong đó có 14 cán bộ, công an, bộ đội, mưu sát đoàn cán bộ của Chính phủ và tỉnh về làm việc với giám mục Lê Hữu Từ, gây ra tình hình phức tạp về an ninh, trật tự tại địa phương. Lực lượng vũ trang đã nhiều lần truy bắt số cầm đầu và các phần tử côn đồ, có nợ máu, nhưng chúng đều được những linh mục phản động che giấu, dùng lực lượng vũ trang chống lại. Thực hiện đúng chính sách tôn giáo của Đảng, với phương châm kết hợp tuyên truyền, giáo dục quần chúng với phân hoá số tay sai và kiên quyết đấu tranh, trừng trị số cầm đầu nguy hiểm, lực lượng công an, quân đội và dân quân đã kiên trì tuyên truyền, giải thích chính sách của Đảng, Nhà nước, đồng thời vạch mặt bọn phản động. Ngày 7.10.1947, linh mục Phạm Ngọc Lý và Lương Đức Liêm đã chấp thuận để lực lượng công an, du kích vào nhà thờ bắt 92 tên, thu 2 súng ngắn, 4 súng trường, 45 kiếm, giáo mác, vv. Tòa án nhân dân đã mở phiên toà xét xử và kết án tử hình 13 tên phản động đầu sỏ. Riêng linh mục Phạm Ngọc Lý được hưởng chính sách khoan hồng, không bị đưa ra xét xử.
    Ở đây có chi tiết này đọc rất tức :

    Riêng linh mục Phạm Ngọc Lý được hưởng chính sách khoan hồng, không bị đưa ra xét xử.
    Thằng này ở trên nói là đầu sỏ cầm đầu tổ chức , thế mà sao không bị gì? Thật chả khác nào mấy thằng Tra Khải, Phong, Kiệt ... ở Thái Hà.

    Trả lờiXóa
  7. Tôi là dân Biên Hòa, nói về dân công giáo ở Hố nai và dân công giáo di cư , tôi góp ý với những gì tôi biết là : http://www.quansuvn.net/index.php/topic,2248.msg46631.html#msg46631

    Dân Hố nai mang tiếng chống cộng theo tôi biết chỉ chống cộng bằng miệng ! bạn bè tôi thời trung học cũng có nhiều người dân Hố nai và tôi biết cũng như chính quyền Sài gòn từng ngán ngẩm Hố nai là cái ổ trốn lính theo bạn bè tôi cho biết thì nếu thống kê thì nếu bắt lính được ở đây thì quân số cả sư đoàn ! . mấy đời Tỉnh trưởng Biên Hòa đích thân chỉ huy vào Hố nai thu gom bắt lính đều bị Nhà thờ cản trở , ngoài ra , cũng theo lời bạn bè thì ở đây cũng là ổ buôn lậu hàng Mỹ ! Chính quyền SG bó tay !
    Chuyện tế nhị gì đó tôi không hề nghe nói ( từ bạn bè là dân Hố nai và dân BH nói ! ), nói chung những ngày cuối cùng của cuộc chiến, sau khi Xuân lộc thất thủ thì ở Biên hòa, ai sợ tên bay đạn lạc thì chạy lánh về Sài gòn, còn ai không sợ thì ở lại hôi đồ ở mấy kho, căn cứ ở Long bình, Tam hiệp, bạn bè tôi cũng kiếm chác được nhiều chứ chẳng thiết tha gì chuyện tử thủ khi quân đội SG chạy tan tác !, có chăng một số đơn vị dù vẫn được lệnh chặn từng khúc , từng nơi trên đường QL 1 về Sài gòn mà các bác đã biết đánh nhau thì phải thủ ở điểm cao, có thể có vài cuộc chạm súng ở khu vực Hố nai giữa quân dù và bộ đội, chứ dân Hố nai thì tôi tin là không dám kháng cự !
    Dân công giáo di cư nói chung cũng hiểu biết chứ không đến nỗi như nhận định là chống cộng quyết liệt đâu ! Hố nai xưa kia là vùng hoang vu , nai còn đầy chạy băng đường QL1, dân công giáo mà ở Hố nai thì cũng không phải là dân " ưu tú " bởi bị bố trí ở vùng ven, nếu ưu tú thì được ở chí ít là ngọai ô Sài gòn chứ đâu ở vùng hoang vắng sát chiến khu D, Biên hòa còn xứ đạo Đại an, Lạc an nằm hai bên sông Đồng nai ở ngay trong rừng chiến khu D, lúc đầu không hiểu chứ lớp người sau sinh vào thập niên 5x, 6x đều có thể hiểu nên phản kháng trốn lính và chỉ lo làm giàu , sau giải phóng dân Hố nai cũng rất năng động làm ăn , các bác đi qua vùng Hố nai thấy rất nhiều cây xăng dầu san sát , chính là ban đầu từ nguồn xăng dầu móc nối với bộ đội mua bán từ tổng kho Long bình ra , phát triển thành doanh nghiệp xăng dầu hiện nay, rồi các cơ sở cưa xẻ gỗ và đồ gỗ cũng chính từ khai thác rừng chiến khu D ! bạn bè tôi cũng thú nhận là sau giải phóng họ mới phất lên ! bây giờ họ đi du lịch Mỹ như đi chợ ! và chắc chắn rằng ở đâu không biết chứ dân Hố nai bây giờ quan hệ với chính quyền , đạo và " đời " tốt lắm !

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Chuyện kinh hoàng xảy ra năm 1972 tại Hố Nai

      Tại Vùng 3, Lực Lượng Xung Kích QÐIII đóng tại Biên Hòa là đại lực lượng mà Cộng quân đáng e ngại nhất lại chỉ được lệnh phòng thủ Biên Hòa.

      Tướng Khôi kể lại trong tập Danh Dự và Tổ Quốc, trang 11: http://ongvove.wordpress.com/2009/04/26/sang-3041975-nh%E1%BB%AFng-d%C6%A1n-v%E1%BB%8B-nao-ti%E1%BA%BFn-v%E1%BB%81-gi%E1%BA%A3i-c%E1%BB%A9u-th%E1%BB%A7-%C3%B0o-saigon-b%E1%BB%8F-ngo/

      Vào khoảng 15 giờ ngày 29/4/74, tôi đang ăn cơm trưa với Bộ Tham Mưu trong tư dinh Tư Lệnh QÐ, thình ***h có chiếc trực thăng của Tướng Toàn đáp xuống vườn hoa tư dinh, bên cạnh chiếc trực thăng chỉ huy của tôi. Thiếu Tá Cư Pilot vào chào tôi và báo cáo cho tôi biết: sau khi rời Long Bình, Cư đưa Tướng Toàn và bộ hạ ra Vũng Tầu, nơi đó có các Tướng Hoàng Xuân Lãm và Phan Hòa Hiệp chờ Tướng Toàn, rồi cả ba người cùng đoàn tùy tùng đáp tầu đánh cá ra hạm đội Mỹ ở ngoài khơi_. Tin Tướng Toàn bỏ ngũ không làm tôi ngạc nhiên. Thiếu Tá Cư xin ở lại với tôi. Tôi đồng ý.
      bdqmt4

      Xóa
    2. http://www.cand.com.vn/vi-VN/phongsu/2010/4/127825.cand

      Qua thị xã Phan Thiết, chúng tôi đến một vùng ở gần thành phố Biên Hoà. Tại đây, sau khi được các đồng chí trong Ban An ninh Miền cho biết, chúng tôi mới vỡ lẽ đó là địa phận Hố Nai. Nơi này khi chưa giải phóng, tập trung khá đông đối tượng lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng. Nhưng nay, trước khí thế áp đảo của cách mạng, bọn chúng run sợ. Một số tên đã bỏ trốn, còn một số tên nằm im "như rắn mồng năm" vậy.

      Ở đây được một ngày, một đêm đến 11h ngày hôm sau, chúng tôi nhận được tin: Tổng thống ngụy quyền Sài Gòn Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trên Đài Phát thanh Sài Gòn; lá cờ giải phóng đã phấp phới trên nóc dinh Độc Lâp. Anh Hoàn đề nghị các đồng chí An ninh Miền cho anh vào Sài Gòn ngay. Song vì lý do trong thành phố chiều ngày 30/4/1975 chưa được tốt lắm, lẻ tẻ vẫn còn các ổ đề kháng của tàn quân ngụy, nên mãi đến sáng ngày mùng 1/5, anh Hoàn và chúng tôi mới đến Sài Gòn.

      Xóa
    3. Ngày 3/5/1975 http://chere-vy.net/wp/?p=626

      Chúng tôi tới Hố Nai, chiến luỹ của người Công giáo chống Cộng di cư. Một gác chuông nhà thờ chịu hư hại nặng vì đạn đại bác. Vậy là đã có giao tranh ở đây. Tôi ngừng xe và xin gặp Cha sở. Một người đàn bà chừng 40 tuổi đề nghị hướng dẫn chúng tôi tới gặp Cha sở. Tôi hỏi bà ta: “Thưa bà, tình hình ra sao?”
      Bà ta cúi đầu: “Con trai tôi và 17 người bạn của nó vừa bị xử bắn. Tôi mới đi chôn chúng nó xong.”
      “Câu chuyện xảy ra như thế nào?”
      “Chúng nó là tự vệ và chúng nó đánh đến cùng. Chúng nó đứng cả trên gác chuông bắn xuống. Thế là rồi chúng nó bị bắn chết hết.”
      Cha sở ngồi yên lặng trên chiếc ghế gỗ, hai tay để trong chiếc áo dòng. Phòng rất rộng, chắc được dùng làm nơi hội họp hàng ngày. Cha sở chừng 60 tuổi. Cha từ Phát Diệm di cư cùng các con chiên. Khi tôi hỏi Cha thì Cha bảo người thông ngôn rằng Cha không biết tiếng Pháp. Ở một góc phòng có một người cầm súng ngồi. Chắc hắn không phải là lính chính quy vì hắn mặc bọ đồ bà ba đen.
      “Thưa Cha mọi sự tốt đẹp chứ?”
      “Phải.”
      Tôi nhấn mạnh: “Thưa Cha, mọi việc bình thường?”
      “Phải.”
      “Có thể phỏng vấn Cha trước máy thu hình?”
      “Không, không được.”
      Không hiểu vì sao lúc ấy tên lính gác lại ra ngoài xem có chuyện gì không. Lúc ấy thì Cha sở nói với tôi bằng thứ tiếng Pháp rất giỏi.
      “Tình thế của chúng tôi rất ngặt nghèo. Tai hoạ đã giáng xuống đầu chúng tôi. Xin hãy nói với các bạn người Pháp của chúng tôi để họ cầu nguyện cho chúng tôi. Chúng tôi cần có những lời cầu nguyện ấy. Xin vĩnh biệt.”

      Xóa
    4. “Lực lượng nhân dân vũ trang phục quốc Việt Nam” http://www.anninhthudo.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=23022&ChannelID=35

      Tên Nguyễn Bá Đề vốn là Thiếu tá biệt động quân Sài Gòn trốn trình diện chạy vào rừng Hố Nai, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai ẩn náu. Hắn đã cấu kết với các tên Nguyễn Văn Cán, Âu Quỳnh Lưu, nguyên là sỹ quan cũ của chính quyền Sài Gòn tập hợp bọn lính ngụy, nhân viên ngụy quyền trốn trình diện lập ra tổ chức phản động mang tên “Lực lượng nhân dân vũ trang phục quốc Việt Nam”.

      Chúng lập “Bộ chỉ huy tối cao” và suy tôn Trần Học Hiệu, sỹ quan tuyên úy cũ làm Chủ tịch Hội đồng lãnh đạo tối cao, kiêm Tổng tư lệnh và Nguyễn Bá Đề làm Tham mưu trưởng. Chúng còn lập ra các Tiểu đoàn 1 và 2 Quyết thắng do các đối tượng Âu Quỳnh Lưu và Nguyễn Phước Đương làm Tiểu đoàn trưởng.

      Xóa
    5. http://kekhopk.com/forums/lofiversion/index.php?t13285.html

      Sau 30 tháng 4 năm 1975, tôi không đi trình diện mà trốn vào Hố Nai, đổi tên và tham gia vào lực lượng phục quốc của cha Hiệu, nhưng chính quyền địa phương đã theo dõi và vào Hố Nai bắt tôi về tội làm cho Phượng Hoàng, không trình diện. Phượng Hoàng là một cơ quan tình báo hỗn hợp, gồm có nhiều cơ quan phối hợp với nhau. Chương trình đó là để theo dõi, thanh lọc, vô hiệu hoá các cơ sở hạ tầng của Cộng Sản.

      Xóa
    6. lan0303 viết lúc 13:10 - 11/10/2010 Xem bài viết http://ttvnol.com/showthread/p-18045715#post18045715

      Năm 1975, số bộ đội ta hy sinh khi đi ngang qua Hố Nai còn nhiều hơn khi đánh vào cụm phòng ngự Dầu Giây - Trảng Bom. 2 bên đường quốc lộ 1A dài khoảng 12km nhà dân san sát, mỗi nhà là 1 ổ đề kháng mà hầu như ko có 1 tên lính ****** nào. Tất cả là đàn bà, con nít, người già.. là con cái Chúa. Đau lòng là bộ đội ta không được phép bắn trả vì đó là dân thường.
      Lê Vũ - Bình địa mộc

      ID bài viết: 18055982 http://ttvnol.com/gdqp/1129656/page-37#post18055982

      về vụ này là đúng sự thật. Bố e từng là 1 chiến sĩ khi đi qua địa phận này, khi vào nhà dân hỏi đường thì bị 1 người đàn bà trong nhà giật chốt tung 2 quả lựu đạn vào giữa đội hình đang hành quân. sau đó rút ar15 bắn thẳng vào những chiến sỹ đứng ở trước nhà. Bố e bị dính 2 viên đạn vào đùi và bị mảnh lựu đạn văng vào mông. hậu quả bây giờ chân trái dài hơn chân phải 4cm. mông thì phẳng lỳ chẳng có tí thịt nào. bố e còn may mắn hơn 4 bác cùng trong đội phải hy sinh vì lựu đạn và nhưng viên đạn oan nghiệt ấy. vậy mà tiểu đoàn trưởng lệnh ko đc bắn người đàn bà ấy. mà phải bắt sống... kết quả người đàn bà ấy tự sát = 1 quả lựu đạn. trước khi chết bà ta còn ôm theo 1 đứa con gái 7 - 8 tuổi. sự thật 100% bố e và 1 vài người bạn cùng kể lại... vucong1

      Xóa