19 tháng 3 2013

MÀU TÍM HOA SIM

Màu tím hoa sim
HỮU LOAN
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh
Tôi người Vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê…
Nhưng không chết
người trai khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa…
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường đông bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu… Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu…

LỜI TỰ THUẬT CỦA HỮU LOAN: VỀ BÀI THƠ MÀU TÍM HOA SIM
“Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung, tôi cũng học tại Thanh Hoá, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938, lúc đó cũng đã 22 tuổi, tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khoá ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và … Tôi – Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hoá để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khoá đầu tiên. Ở Thanh Hoá, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí : ‘ Em chào thầy ạ’. Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằng sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết.
Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu ấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một ‘bà cụ non’. Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo : em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn ; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt …
Có lần tôi kể chuyện « bà cụ non » ít nói cho 2 người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận ! Suốt một tuần liền em nằm lì trong buồn trong, không chịu học hành … Một hôm, bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ … Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý : « mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu » Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …
Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. bất chợt em hỏi tôi :
– Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi : tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ … Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
– Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ : « Ngọt quá ».
Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế !
Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác.Tôi nhìn em, em cười. hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì … tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi … Tôi quay đầu nhìn lại … em vẫn đứng yên đó … Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa …
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm sau, tôi trở lại nhà, về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp …
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sơ, ï vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm « soạn kịch bản ».
Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là :’yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả’. Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay … lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hoá của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, Em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ giờ em không còn cô bé Ninh nữa, mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại … Nếu như 9 năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mát thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ : vợ tôi qua đời ! Em chết thật thảm thương : Hôm đó là ngày 25/05 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối ! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi …
Tôi phải giấu kính nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn … Dường như càng kèm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, Tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh …
… Tôi về không gặp nàng …
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hoá … Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.
Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 02/04/1916 hiện tại đang « ở nhà trông vườn » ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ « quê đẻ của tôi đấy » thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay, nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu:
Chiều hành quân, qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt
Và chiều hoang tím có chiều hoang biếc
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi’ hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi’. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!
Đó là thời năm 1955-1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút cam tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cặn. Làm thơ phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì ! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng …
Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn 1 tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông … Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động.. Tôi phản động ở chỗ nào ? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc ?
Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được ! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có 2 cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi … Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi ! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi ! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mết chuộng. sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm !
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954-1955.
Lúc đó còn là chính trị viên của tiểu đoàn, tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần 500 mẫu tư điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn, nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Thế rồi, một hôm, Tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố . Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại 2 cái đầu đó, cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ, nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.
Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi ; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no … Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa !
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ. Thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm ra nhập làm gì.
Năm 1988, tôi « tái xuất giang hồ » sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gío. Tôi lang bạt gần 1 năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí – xuất bản và đổi mới thực sự.
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyền bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với gía 100 triệu đồng. Họ bảo, đó là một hình thức bảo tồn tài sản Văn hoá. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia « lộc » cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi gìa, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán…”.
Nhà Thơ HỮU LOAN
Trang đầu bản thảo “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan
Trong thi ca Việt Nam, có lẽ bài thơ “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan là bài thơ được phổ nhạc nhiều nhất, và có lẽ thành công nhất và cũng giữ được tính bi tráng của bài thơ nhiều nhất là bản “Áo anh sút chỉ đường tà” của nhạc sỹ Phạm Duy.

Ảnh: hcmutrans.edu.v





Dzũng Chinh và Những Đồi Hoa Sim
Dzũng Chinh tên thật là Nguyễn Bá Chính (một số tài liệu ghi là Nguyễn Văn Chính). Khi sáng tác bản nhạc Những đồi hoa sim, Dzũng Chinh còn đang là sinh viên Luật khoa Sài Gòn. Sau khi bài này nổi tiếng với tiếng hát của “con nhạn trắng Gò Công” Phương Dung (1961-1962), Dzũng Chinh đi quân dịch vào năm 1965. Ngoài bản nhạc “Những đồi hoa sim”, Dzũng Chinh còn phổ một số bài khác như “Tha La xóm đạo” (thơ Vũ Anh Khanh), “Các anh đi” (tác giả Hoàng Trung Thông), v..v…

Có lẽ chán nản với cấp bực trung sĩ, Dzũng Chinh xin học khóa sĩ quan. Khi được điều động về Trà Vinh, nhạc sĩ Trúc Phương viết bài Để trả lời một câu hỏi tặng Dzũng Chinh. Dzũng Chinh tử trận ngày 1/3/1969 với cấp bậc cuối cùng là Thiếu úy. Người bạn của Dzũng Chinh là nhạc sĩ Thanh Sơn nghe tin bạn mình mất có viết bài hát Đọc tin trên báo, thâu vào đĩa nhựa Thiên Thai 45 do Trúc Ly ca.
Ảnh hcmutrans.edu.vn



ĐÔI CHUYỆN BÊN LỀ
Ngày Dzũng Chinh phổ biến bản nhạc này, lúc đó ông đang còn là sinh viên Luật khoa Saigon, với cái tên cha sinh mẹ đẻ là Nguyễn Bá Chinh. Sau khi bản nhạc nổi tiếng qua tiếng hát của ca sĩ Phương Dung (khoảng 1961-62), ông phải vào lính, khóa mấy Thủ Đức thì tại hạ không nhớ….Tốt nghiệp, ông được điều xuống miền Tây, và trong một chuyến công tác, xe ông bị trúng mìn trên QL 4, chuẩn úy Nguyễn Bá Chinh chết, được đưa về nghĩa trang quân đội Gò Vấp với bia ký là “Cố Thiếu úy Nguyễn Bá Chinh”. Ngoài bản nhạc “Những đồi hoa sim”, ông còn nổi tiếng với bản “Tha La xóm đạo” (thơ Vũ Anh Khanh).
Sau khi tàu hỏa Thống Nhất chạy được vài chuyến (1976), thì Hữu Loan đã vào Nam thăm thân nhân trên chuyến tàu này. Khi xuống ga Saigon, ông tình cờ nghe một giọng hát những lời có phần….quen quen. Tìm, thì thấy một người ăn mày….cụt chân (khiếm cước cái bang) đang ôm cây Ghi-ta cũ mèm ngồi ở góc sân ga, đang dạo và hát rất đúng nhịp bài hát của Dzũng Chinh. Hữu Loan ngồi nghe hết bản nhạc, rồi mới gợi chuyện, hỏi người hát rong ấy về bản nhạc và nguyên nhân nào làm anh cụt chân, người kia trả lời “…bị thương ở trận Bình Long anh dũng….”
Hữu Loan ái ngại, và yêu cầu anh kia hát lại, ông ngồi nghe hết bản nhạc rồi đứng dậy, móc hết tiền còn trong túi đưa cho “người nghệ sĩ nghèo”, kèm theo lời cảm ơn và nói cho anh nghe “…Tôi là tác giả bài thơ đó !”
Ông bỏ đi trong sự ngẩn ngơ của người ăn xin…….
Nguồn: http://my.opera.com/diemxuacafe/blog/dzung-chinh

‘Màu tím hoa sim’ do nhạc sỹ Duy Khánh và Trọng Khương phổ nhạc. Ảnh hcmutrans.edu.vn



Màu Tím Hoa Sim do nhạc sỹ Song Ngọc phổ nhạc. Ảnh hcmutrans.edu.vn




Thủ bút của nhà thơ Hữu Loan, viết lại bài Màu Tím Hoa Sim, “khóc vợ Lê Ðỗ Thị Ninh” (Hình: Viên Linh)
Hữu Loan sống một mình ở hành tinh chết xa xôi?
18 Tháng 3
Phạm Thành
(Viết nhân ngày đưa tang Hữu Loan).
Ngày 4.5.1975 đơn vị vận tải quân đội, Tỉểu đoàn 672 của chúng tôi có mặt tại Sài Gòn sau các đơn vị chiến đấu 4 ngày và trú quân tại Bộ Tổng Tham mưu của chính quyền cũ trên đường Võ Di Nguy, quận Phú Nhuận. Tôi và hai người bạn (Thành, quê Vĩnh Yên và Hùng, quê Hải Dương) vượt rào đi dạo Sài Gòn sau ngày đại thắng. Một thiếu nữ Sài Gòn, tên Nguyễn Kim Hải, sinh viên năm thứ 2 Văn khoa Sài Gòn, mời chúng tôi vào nhà em chơi. Nhà em ở phố Thích Quảng Đức. Tại nhà em, lần đầu tiên trong đời, tôi được nghe bài hát qua băng cát-xet và cũng là lần đầu tiên nghe bài hát “Màu tím hoa sim” do Khánh Ly hát. Em mở băng thật to và Khánh Ly giọng cũng thật vang. Lời hát đau đớn não nùng đến sợ, đọng lại ngay trong tôi là câu: “Nhưng không chết chàng trai khói lửa mà chết người gái nhỏ hậu phương, hỡi ôi” và một mớ ngôn ngữ lạ lẫm “Tím chiều hoang biền biệt. Đồi hoa sim tím”. Nghe xong, tôi thấy cô sinh viên Kim Hải ngấn lệ trên mắt, tuy nhiên chúng tôi thì chỉ có chút bồi hồi. Có lẽ chúng tôi còn trẻ, vừa ở rừng về, và lại đang phấn khích trong hào khí chiến thắng, nên chưa thể hiểu được những cái đau nội tâm đứt ruột trong cuộc đời, đâm ra thờ ơ vô cảm trước ngôn ngữ sâu thẳm bên trong của bản nhạc.
Sau đó tôi giải ngũ, về làm phóng viên Đài Phát thanh tỉnh Thanh Hóa (hơn 4 năm), rồi đi học Đại học Báo chí tại Trường Tuyên Giáo trung ương (hơn 4 năm). Học xong tôi về làm phóng viên ở Đài TNVN cho đến nay. Khi đang học, “Nhưng không chết chàng trai khói lửa mà chết người gái nhỏ hậu phương và “Tím chiều hoang biền biệt”, được các thầy giáo cho biết, đó là câu trong bài thơ Màu tím hoa sim của tác giả người Thanh Hóa thuộc nhóm phản động, chống đảng: Nhân văn – Giai phẩm. Khi làm báo, lại làm ở cơ quan tuyên truyền trung ương, cứ nghĩ đến chữ phản động, chống đảng là tai như điếc, mồm như câm, mắt như mù… makeno, kẻo vạ đến thân như nhóm Nhân văn – Giai phẩm. Tội này, xét thì không xét, xử không xử, cứ ở trại giam mút mùa, đời như chết rồi mà chưa chôn. Thú thật lúc này, cái sợ đã làm tôi trở nên câm điếc trước những lời mời gọi của bài thơ mà mình không có can đảm tìm đến nó.
Mãi cho đến những năm 1990, nhân việc Nhà nước đổi mới và những nhân vật Nhân văn – Giai phẩm được nới lỏng, tôi mới được dịp đọc toàn bộ bài Màu tím hoa sim và hiểu thêm về tác giả. Hóa ra, ông Hữu Loan là cán bộ tiền khởi nghĩa, và đã có chức vụ rất lớn trong chính quyền cách mạng của Nhà nước Việt Nam – Phó chủ tịch UBHCKC huyện Nga Sơn, “siêu” giám đốc 4 ty của tỉnh Thanh Hóa, chủ bút tờ Chiến sĩ của Sư đoàn 304; sau năm 1954 làm báo Văn nghệ. Từ báo Văn nghệ, ông bỏ về quê làm người xẻ đá, thồ đá, bán đá mưu sinh đằng đẳng, cay cực mấy chục năm trời, hơn hẳn mừơi năm “nếm mật nằm gai” của cụ Lê Lợi thuở xưa. Cuộc sống của ông giống như cuộc sống của một kẻ tội đồ đang mưu sinh một mình ở một hành tinh chết xa xôi nào đó cho đến ngày ông về cõi tiên – ngày 18.3.2010, thọ 95 tuổi.
Một điều thật lạ lùng, ngay từ lần đọc đầu tiên toàn bộ tác phẩm “Màu tim hoa sim”, tôi đã bật khóc. Và từ năm 1990 đến nay, mỗi năm ít nhất tôi đọc lại một lần. Lần nào cũng vậy, lòng tôi đều rung lên, mắt tôi nhòe lệ, bất kể tôi đang ở trạng thái nào, khi rượu ủ mềm bụng, hay khi khí uất ngùn ngụt trên đầu, hay đang buồn phiền đến chân tay cũng trở nên thừa thãi. Có lẽ, với riêng tôi, cái hay của Màu tím hoa sim là ở chỗ “tôi được khóc”. Bài thơ ông khóc vợ ông mà như vắt ra từ chính cõi lòng của tôi vậy. Chi tiết nào trong bài thơ tôi thấy cũng thật, cũng gần gũi như cơm ăn nước uống hàng ngày của tôi. Đời người có cái gì đau đớn hơn khi cái hạnh phúc và cái mất mát bi thương kề cận nhau, quấn quýt nhau như thế. Nó cứ từ từ dâng lên, lớp nọ táp vào lớp kia cho đến khi trái tim không thể cưỡng lại:
“Tôi về thấy má tôi ngồi trong bóng tối / Bình hoa ngày cưới / Thành bình hương tàn lạnh vây quanh…/ Em ơi, anh không còn nghe em nói, không còn nghe em cười…/ Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc/ Nghe tin em gái mất / Trước tin em lấy chồng”…
Hôm nay, nghe tin ông mất, lang thang trên mạng, hết đọc tin chia buồn, rồi lại vào đọc hồi ký của ông, rồi đọc những bài tán tụng cái tiên ông đạo cốt của ông. Bất chợt lòng buồn lóe lên, tại sao đến tận bây giờ, vẫn chưa có công trình nghiên cứu nghiêm túc nào về ông, để cho bàn dân thiên hạ hiểu rõ, rằng, tại sao ông lại bỏ về? Phải chăng ông thích bỏ về để đi làm thân cu li xẻ đá, thồ đá, bán đá như một anh hành khất bên lề đường? Phải chăng, ông có “Đèo Cả”, “Màu tím hoa sim”, “Hoa lúa”, “Những làng sư đoàn đi qua”…là ông đã xong cái việc đời của ông rồi? để ông đáng bị nhân Việt bỏ đói, truy ép, đầy đọa? Ông vô trách nhiệm với cái dạ dày của ông, của vợ con ông đến thế sao? Cái xã hội này không xứng để ông đi cùng sao? Tại sao trong cái Hội Nhà văn đông đảo thơ sĩ, văn sĩ, luận sĩ… của Việt Nam chỉ có ông và nhà văn Nguyên Hồng cùng dám bỏ về quê như vậy? Chà chà, nếu ông như mọi người, nhất định ông sẽ thành ông quan lớn, ty tỷ kẻ lạy nhờ, tỷ tỷ kẻ tung hô, tỷ tỷ kẻ bợ đít… Như thế, ông, con ông – mười đứa, chứ có 20, 30 đứa- hẳn cũng sẽ là những đại gia của thời đổi mới này rồi.
Phải chăng ông nhất quyết bỏ về là vì ông cảm thấy mình bị phản bội, bị lừa dối? Phải chăng tao không chơi với chúng mày vì chúng mày toàn những thằng đểu? Nó có giống như những Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Hoàng Minh Chính; sau này là Trần Độ, là Đào Hiếu, Phạm Đình Trọng… mà mãi mấy chục năm sau mới nhận ra điều mà ông đã nhận ra từ lâu?
Ai biết, vì sao ông lại bỏ về quê như vậy, vì sao ông từ một nhà cách mạng, một nhà thơ lớn lại từ bỏ chính trường như vây? hãy nói cho tôi rõ với? Tôi e rằng, tôi không biết, không hiểu; anh không biết, không hiểu; bạn không biết, không hiểu… sẽ còn có nhiều người như Hữu Loan phải chịu cảnh sống với đồng chí, bè bạn mà như đang sống một mình ở một hành tinh chết xa xôi nào đó.
19 h ngày 19 tháng 3 năm 2010- 16h ngày 9 tháng 3 năm 2012.
Phạm Thành
Di bút của nhà thơ Hữu Loan


1 nhận xét:

  1. Read more http://fddinh.blogspot.com/2010/04/tho-nhac-vnch-chom-chia-tu-vndcch.html

    Trả lờiXóa