Hiển thị các bài đăng có nhãn lừa tình. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn lừa tình. Hiển thị tất cả bài đăng

16 tháng 12 2014

SỰ THẬT VỀ NĂM 1937 Ở LIÊN XÔ

Người ta được cho biết rằng "Đại thanh trừng" là chiến dịch thanh trừng chính trị diễn ra tại Liên Xô dưới sự chỉ đạo của Iosif Vissarionovich Stalin thập niên 1930.
Khi quá trình này được thực hiện, Stalin đã củng cố quyền lực của mình ở gần mức tuyệt đối vào năm 1934 với sự sát hại Sergei Mironovich Kirov (việc mà nhiều người ngờ rằng Stalin đã sắp đặt kế hoạch) như một hoàn cảnh để tung ra Cuộc thanh trừng vĩ đại chống lại những kẻ bị cho là đối thủ chính trị và tư tưởng của ông ta, nổi tiếng nhất là những cán bộ cao tuổi và những thành viên từ chức vụ thấp đến cao trong Đảng Bolshevik. Lev Davidovich Trotsky đã bị tống khỏi đảng năm 1927, bị đầy tới Kazakhstan năm 1928 và sau đó bị trục xuất hoàn toàn khỏi Liên Xô năm 1929.
Rằng Stalin đã sử dụng các vụ thanh trừng để hủy hoại về mặt tinh thần và thể chất những đối thủ chính thức khác của ông ta (và cựu đồng minh) buộc tội Grigory Yevseevich Zinoviev và Lev Borisovich Kamenev đứng đằng sau vụ sát hại Kirov và có kế hoạch lật đổ chế độ Stalin. Cuối cùng, những người bị cho là liên quan đến việc này và các âm mưu khác với số lượng hàng chục nghìn người gồm nhiều cựu Bolshevik và thành viên cao cấp của đảng bị buộc tội âm mưu và phá hoại để giải thích cho những vụ tai nạn công nghiệp, sự thâm hụt sản xuất và các tai nạn khác của chế độ Stalin. Các biện pháp để chống lại những người đối lập và bị nghi ngờ gồm việc giam giữ trong các trại lao động (Gulag) tới hành quyết (con trai Trotsky, Lev Sedov và giống như Sergei Kirov - bản thân Trotsky cũng chết dưới bàn tay những kẻ giết người (của Stalin?) năm 1940).
Thời kỳ từ 1936 đến 1937 thường được gọi là "Nỗi khiếp sợ vĩ đại", với hàng nghìn người (thậm chí chỉ đơn giản bị nghi ngờ chống đối chế độ Stalin) bị giết hoặc bị bỏ tù. Stalin nổi tiếng đã đích thân ký 40.000 giấy phép giết hại người tình nghi đối thủ chính trị.
Trong thời kỳ đó, việc thực hiện các cuộc bắt giữ hàng loạt, tra tấn và phạt tù hay hành quyết không cần tòa án, đối với bất kỳ kẻ tình nghi nào là chống đối chính quyền Stalin của cảnh sát mật trở thành chuyện thường tình. Chỉ riêng ước tính của NKVD, 681.692 người đã bị bắn chỉ riêng trong khoảng 1937-1938 (mặc dù nhiều nhà sử học nghĩ rằng con số này vẫn còn dưới mức sự thực), và hàng triệu người đã bị chuyển tới các trại lao động Gulag.
Chúng ta cùng xem: Tài liệu phục vụ nghiên cứu

TN 2013 - 24 & 25: Sự thật về năm 1937 ở Liên Xô

09/01/2014
Bài viết là nội dung cuộc phỏng vấn của bình luận viên Vladimir Sukhomlinov (Báo Văn học, Nga) và nhà sử học nổi tiếng Juri Zhukov về năm 1937 - thời điểm khủng khiếp nhất trong lịch sử Liên Xô, khi “hàng chục triệu người vô tội” trở thành nạn nhân của những cuộc đàn áp đại trà, bị sát hại như “những kẻ thù của nhân dân” theo chỉ thị của “kẻ độc tài Stalin” vốn hành động chỉ cốt để “củng cố quyền lực cá nhân và trừng trị các đối thủ”.

SỰ THẬT VỀ NĂM 1937 Ở LIÊN XÔ

Trong hơn nửa thế kỷ qua, nhiều sách báo và các phương tiện thông tin đại chúng ở Nga và phương Tây thường nhắc tới năm 1937-1938 như một thời điểm khủng khiếp nhất trong lịch sử Liên Xô, khi “hàng chục triệu người vô tội” đã trở thành nạn nhân của những cuộc đàn áp đại trà, đã bị sát hại như “những kẻ thù của nhân dân” dường như theo chỉ thị của “kẻ độc tài” vốn hành động chỉ cốt để “củng cố quyền lực cá nhân và trừng trị các đối thủ”. Nhiều con số được dẫn ra, nhiều số phận của những con người cụ thể được kể lại. Song người ta hoặc vô tình hay cố ý bỏ qua một số điểm rất quan trọng là những cuộc trấn áp đã diễn ra trong hoàn cảnh nào, những sự kiện gì ở trong và ngoài nước đã ảnh hưởng tới tình hình ấy và liệu những kết luận được rút ra đã thật khách quan và chính xác? Đó là những vấn đề đang thu hút sự chú ý của các nhà sử học nói riêng và của tất cả những ai quan tâm đến lịch sử nước Nga – Xôviết nói chung. Để cung cấp cho bạn đọc – những người quan tâm đến sự thật lịch sử nhân loại một góc nhìn tương đối còn mới mẻ và khác biệt, NV&TP xin giới thiệu cuộc trao đổi thẳng thắn chung quanh những vấn đề này giữa nhà sử học nổi tiếng Juri Zhukov và bình luận viên Vladimir Sukhomlinov của tờ “L.G.” (Báo Văn. Liên bang Nga). Bài do dịch giả Lê Sơn chuyển Việt ngữ.
***
* Cách đây hơn 30 năm, tôi, lúc đó là một nhà báo trẻ tuổi, đã đàm đạo với Parubok, một phi công thử nghiệm đã lớn tuổi, và chúng tôi cùng nói về năm 1937. Tôi hỏi hồi đó ông ấy ở đâu. Parubok cho biết ông ấy đã sống trong một ngôi làng gần thành phố Kiev, nạn đói đã qua rồi”Mọi người uống rượu say sưa vì phấn chấn”. Có vẻ như những điều đó chẳng ăn nhập gì cả..?
– Điều đó là bình thường! Bởi lẽ, cho đến nay, Nga là một đất nước có lịch sử được huyền thoại hóa về nhiều mặt. Những sự kiện quan trọng đôi khi bị đẩy xuống hàng thứ yếu, còn những sự kiện đập vào mắt hay có lợi về mặt chính trị cho các nhà cầm quyền thì được thổi phồng, được cường điệu hóa. Song cần phải ngắm nhìn bức tranh với tất cả các màu sắc. Hiện nay, đối tượng nào bị chỉ trích là chủ yếu, bởi bất kỳ phái đối lập nào cũng như bởi tất cả mọi người? Đó là quan chức. Lớp người này tuồng như không phải là cộng sản, không phải là bônsêvích. Song tất cả những ai thuộc cánh tả lẫn cánh hữu, kể cả những vị ngồi trong điện Kremli, đều gặp nhau ở một điểm: quan chức – ấy là tai họa cho đất nước! Và vào những năm 1937-1938, khi xảy ra những vụ bắt bớ các quan chức, thì đó trước hết là cú đòn giáng vào lớp người có chức quyền này.
* Gần 500 ngàn quan chức thuộc đủ mọi cấp bậc (trước hết là các cán bộ đảng) bị cách chức và bị trừng trị.
– Đúng thế. Quả là có hai sự việc gắn bó mật thiết với nhau: Bọn quan chức bị ăn đòn và việc công bố bản Hiến pháp năm 1936 vốn được gọi là Hiến pháp Stalin. Tại kho lưu trữ, tôi đã cầm trên tay những trang bản thảo Hiến pháp, và thấy rằng một số điều quan trọng nhất được đích thân Stalin chấp bút. Và mọi người có được bộ luật cơ bản, và biết rằng những kẻ từng đè đầu cưỡi cổ và nhạo báng họ đã bị sa thải và bị tống giam.
Bản Hiến pháp trước đây (được soạn thảo vào năm 1923) bao gồm hai phần. Trong lời mở đầu có nói rõ: thế giới được chia thành hai phe đối địch – phe xã hội chủ nghĩa và phe đế quốc chủ nghĩa. Hai phe này tất yếu sẽ đấu tranh với nhau và mọi người đều thấy rõ ai sẽ thắng. Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xôviết ra đời. Phần chủ yếu cũng được viết theo tinh thần của những năm 1917-1918. Theo luật định thì một bộ phận dân cư đáng kể (bộ phận này thay đổi hàng năm) rơi vào danh sách của cái gọi là những người bị tước đoạt, không có quyền bầu cử. Trước hết, nếu xét theo nguồn gốc xã hội, đó là con cái của địa chủ, hiến binh, những người có huyết thống quý tộc. Ngoài ra đó là tầng lớp phú nông (cu-lắc)…
Trong Hiến pháp mới 1936 hoàn toàn không có sự chia tách thế giới ra làm hai phe đối địch.
Ngoài ra, Đảng chỉ được nhắc tới trong điều 126. Trong chương 10 nói về quyền hạn và nghĩa vụ của công dân. Chẳng hạn quyền thành lập các tổ chức xã hội mà nòng cốt có thể là một tổ chức xã hội như là Đảng Cộng sản. Tiếp theo là hệ thống bầu cử. Trước đây một số người này có quyền bầu cử và ứng cử, còn một số người khác thì không. Và cũng có sự không bình đẳng: một phiếu bầu của công nhân bằng ba phiếu của nông dân nhằm thực hiện nền chuyên chính của giai cấp vô sản. Điều mang tính chất hình thức chủ nghĩa thuần túy này đã bị hủy bỏ.
Giờ nói đến bản thân việc bầu cử. Theo Hiến pháp năm 1923 thì việc bầu cử được thực hiện ở ba cấp (điều này gây khó khăn cho việc tự do bầu cử) và không có sự lựa chọn.
Còn Hiến pháp năm 1936 và luật bầu cử được thông qua vào tháng 7 năm 1937 thì có gì mới?
Một là, không có bất kỳ ai bị tước đoạt, trừ những người bị tòa án tước quyền công dân vì phạm tội. Hai là, quyền phổ thông đầu phiếu, bầu trực tiếp. Mỗi người bỏ phiếu bầu một ứng cử viên cụ thể làm đại biểu Xôviết tối cao mà cả Stalin lẫn Molotov đều công khai gọi là quốc hội. Bầu bằng phiếu kín, có sự lựa chọn. Theo luật định, mỗi một ghế chí ít phải có 2-3 ứng viên. Chính thể lệ bầu cử này đã dẫn tới cái mà hồi đó mọi người gọi là nạn Ezhov, còn hiện nay người ta gọi không đúng là những vụ trấn áp đại trà.
* Tại sao lại không đúng?
– Chữ “repressija” (tiếng Pháp là “repression”) có nghĩa là “sự trừng trị, biện pháp trừng phạt”. Nó không chỉ được áp dụng đối với các đối thủ chính trị mà còn bao hàm cả việc kết tội ai đó vì hành vi ngộ sát, cưỡng bức, cướp bóc, hối lộ, biển thủ… Còn hiện nay, người ta dùng thuật ngữ này để chỉ tất cả những người bị bắt giam, kể cả bọn tội phạm hình sự, những kẻ phản quốc từng phục vụ trong các đơn vị biệt kích SS vào những năm chiến tranh chống phát xít, bọn trộm cắp v.v… Tất tần tật vào cùng một bị. Giết người, cưỡng hiếp cũng là kẻ bị trấn áp, là nạn nhân của cuộc khủng bố mang tên Stalin(?!) Một thủ đoạn rất quỷ quyệt.
Rất phổ biến là những con số từ Solzhenisyn, Razgon, Antonov – Ovsenko. Trong cuốn Chân dung tên bạo chúa, Antonov – Ovsenko thông báo rằng, chỉ từ 1935 đến 1940, số lượng những người bị trấn áp đã xấp xỉ 19 triệu.
* Theo chỗ tôi được biết, con số thực tế không phải vậy, mặc dầu cũng rất lớn. Gần 800 ngàn người bị xử bắn.
– Đúng thế. Bằng ấy người, nhưng từ 1921 đến tận 1953 cơ. Trong đó có 681.692 người trong hai năm 1937-1938.
Solzhenisyn đã đưa ra những con số hoàn toàn viển vông. Ông ta cho rằng trong những năm dưới chính quyền Xôviết có 110 triệu người bị trấn áp. Các nhà xã hội học phương Tây trong những năm chiến tranh lạnh đã đưa ra con số 50-60 triệu. Khi cuộc cải tổ bắt đầu, con số đó được hạ xuống còn 20 triệu.
Ở viện nghiên cứu chúng tôi có một tiến sĩ sử học tên là Viktor Nikolaevich Zemskov. Cùng với các bạn đồng nghiệp trong một nhóm, ông đã dành ra mấy năm, kiểm tra đi, kiểm tra lại những con số thực tế của các cuộc trấn áp, cất trong các kho lưu trữ. Chẳng hạn, những người bị xét xử theo điều 58. Và ông được những kết quả cụ thể. Phương Tây la ó. Và được trả lời: Đây là những tài liệu lưu trữ. Xin mời các ngài! Họ đã đến, đã kiểm tra và buộc phải đồng ý. Với những con số như sau:
Năm 1935, theo điều 58, có tất cả 267 ngàn người bị bắt và bị kết tội, trong số đó có 1229 người bị xử bắn. Tương ứng trong năm 1936 là 274 ngàn và 1118. Tiếp đó là cao trào. Trong năm 1937, có hơn 790 ngàn người bị bắt và bị kết tội theo điều 58, hơn 353 ngàn người bị xử bắn. Trong năm 1938 – hơn 554 ngàn người bị bắt và bị kết tội, hơn 328 ngàn người bị xử bắn. Sau đó là thoái trào. Trong năm 1939 – gần 64 ngàn và 2552. Trong năm 1940 – gần 72 ngàn và 1649.
Tổng cộng lại, trong thời kỳ từ năm 1921 đến 1953 có 4.060.306 người bị kết tội, trong số đó 2.634.397 người bị phạt tù và bị đưa vào trại cải tạo. Chỉ còn lại một câu hỏi: tại sao đặc biệt vào năm 1937-1938 lại xảy ra những chuyện khủng khiếp thế?
* Tất nhiên rồi, điều đó khiến cho mọi người quan tâm như trước đây.
– Trước hết: ai có lỗi? Mọi người bảo: Stalin. Đúng thế. Với tư cách là người lãnh đạo cao nhất của đất nước, ông phải chịu trách nhiệm chính. Song tất cả những chuyện đó đã xảy ra như thế nào?
Tháng 6 năm 1937. Đại hội các Xôviết cần phải được tiến hành. Trước đó đã diễn ra Hội nghị toàn thể của UBTW đảng để thảo luận về luật bầu cử. Trước Hội nghị này, các bí thư thứ nhất của Tỉnh ủy, Khu ủy liên tục gửi điện lên TW xin phép được bắt các kỹ sư, các cán bộ lãnh đạo nhà máy.
Stalin lần nào cũng trả lời vắn tắt và dứt khoát: Tôi không cho phép. Nhưng sau Hội nghị toàn thể, Stalin đã đồng ý. Về việc gì? Về cái việc mà “các nhà dân chủ” của chúng ta ngày nay cố lờ đi.
Ngay sau Hội nghị TW (vốn ủng hộ luật bầu cử mới, cử tri được quyền lựa chọn các ứng cử viên), những bức điện mật tới tấp được gửi tới Moskva. Các bí thư Tỉnh ủy, Khu ủy, Ủy ban TW đảng cộng sản ở các nước cộng hòa hỏi về cái gọi là những giới hạn. Số lượng những người mà họ có thể bắt và xử bắn hoặc đưa đi phát vãng. Người hăng hái nhất trong việc này là “nạn nhân của chế độ Stalin” Eikhe mà hồi đó giữ chức bí thư thứ nhất khu ủy miền Tây Sibiri. Ông ta xin phép bắn 10.800 người. Đứng ở hàng thứ hai là Khrushchev hồi đó đứng đầu tỉnh ủy Moskva: ông ta chỉ xin phép bắn “vẻn vẹn” 8.500 người. Đứng ở hàng thứ ba là bí thư thứ nhất khu ủy Azov – Hắc Hải (nay là vùng sông Đông và Bắc Kavkaz) Evdokimov: xin phép bắn 6.640 người và đưa đi trại cải tạo gần 7 ngàn. Các bí thư khác cũng hiếu sát như vậy, nhưng với những con số ít hơn. Một ngàn rưỡi, hai ngàn người…
Sau đó nửa năm, khi Khrushchev làm bí thư thứ nhất UBTW đảng Cộng sản Ukraina, trong một công văn khẩn đầu tiên gửi đến Moskva, ông ta xin phép bắn 20.000 người! Mà đó chỉ là lần đầu (!).
* Họ nêu lên những lý do gì để biện minh cho yêu cầu của mình?
– Chỉ một lý do: họ viết rằng Bộ dân ủy nội vụ (NKVD) vừa mới phát hiện ra một tổ chức vũ trang bí mật đang chuẩn bị nổi loạn. Nghĩa là không thể bầu cử có lựa chọn, chừng nào những tổ chức dường như có tính mưu phản ấy chưa bị tiêu diệt.
Có một điều cũng đáng chú ý, là chuyện đó đã diễn ra ngay trong Hội nghị TW khi thảo luận về luật bầu cử. Không ai dám phát biểu phản đối công khai, nhưng không hiểu sao hầu như tất cả những nhân vật “hiếu sát” hàng đầu đó lặng lẽ từng người một đến gặp riêng Stalin tại phòng làm việc của ông ngay trước khi Hội nghị khai mạc. Lần thì một người, lần thì hai, ba người… Sau những cuộc viếng thăm riêng lẻ đó, Stalin đành phải đầu hàng.
Tại sao? Điều này có thể hiểu được.
Vào thời gian đó, Stalin nhận thức rõ rằng Ezhov, Bộ trưởng dân ủy nội vụ, trên thực tế không phục tùng ông.
* Không thể tin được điều đó!
– Tại sao? Với tư cách là nguyên bí thư thứ nhất của tỉnh ủy, Ezhov đã vào hùa với những người đồng cấp khác. Điều đó có nghĩa: nếu Stalin khước từ những yêu sách của họ thì một ai đó trong số các ủy viên TW sẽ bước lên diễn đàn và tuyên bố: “Các đồng chí! Tất cả những hành vi của Stalin vào thời gian gần đây đã cho thấy rằng ông ta là kẻ xét lại, là phần tử cơ hội, ông ta đã phản bội sự nghiệp của Cách mạng tháng Mười, đã phản bội những lời di huấn của Lênin, đã phản bội cuộc Cách mạng của chúng ta”. Và diễn giả sẽ đưa ra không phải một mà là hàng chục dẫn chứng.
* Như vậy là Stalin hoặc là đã hèn nhát vì sợ mất quyền lực hoặc là có kế sách riêng của mình. Còn có những lý do nào nữa?
– Tôi xin đưa ra mấy ví dụ. Tháng 9 năm 1934, Liên Xô gia nhập Hội quốc liên, một tổ chức mà trước đó được bộ máy tuyên truyền của chúng ta coi là công cụ của chủ nghĩa đế quốc. Tháng 5 năm 1935, Liên Xô ký hiệp ước với Pháp và Anh về phòng thủ chung, trong trường hợp Đức mở cuộc xâm lược.
Tháng 1 năm 1935, có thông báo về việc xem xét lại Hiến pháp. Và sau đó ít lâu, thông qua “một nhóm đồng chí”, người ta đã biết sẽ có những thay đổi nào.
Tháng 6 năm 1935, Đại hội quốc tế cộng sản lần thứ bảy, đại hội cuối cùng, chuẩn bị nhóm họp. Người lãnh đạo của tổ chức này là Georgi Dimitrov tuyên bố: từ nay trở đi, những người cộng sản muốn nắm chính quyền thì cần phải tiến hành không qua biện pháp cách mạng, mà bằng con đường dân chủ, thông qua bầu cử. Ông đề nghị thành lập mặt trận nhân dân: những người cộng sản cùng với những đảng viên xã hội và những đảng viên dân chủ. Bước ngoặt đó, theo quan điểm của những người Bônsêvich cứng rắn, là một tội lỗi: những người cộng sản đi lại câu kết với kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản là những nhà xã hội dân chủ.
* Cái công thức cứng nhắc: chủ nghĩa cộng sản – chủ nghĩa đế quốc đã bị sụp đổ.
– … Cuối năm 1935, Stalin trả lời phỏng vấn của nhà báo Mỹ Howard. Ông cho biết sắp sửa có Hiến pháp mới, hệ thống bầu cử mới, và sẽ có cuộc đấu chọi khốc liệt giữa các ứng cử viên, bởi lẽ họ được giới thiệu không phải chỉ bởi đảng cộng sản mà còn do bất cứ một tổ chức xã hội nào, thậm chí do một nhóm người đề nghị.
Lập tức giữa các ủy viên TW đã có những lời ong tiếng ve: chẳng nhẽ cả các cha đạo cũng có thể được đề cử ư? Họ liền được trả lời: Tại sao không? Cả bọn cu-lắc nữa ư? Không phải bọn cu-lắc, mà là nhân dân – họ được giải thích. Tất cả những điều đó đã khiến những người theo phái đảng trị đâm hoang mang lo sợ.
Một bộ phận đáng kể các bí thư thứ nhất hiểu rằng, họ đã làm nhiều điều xằng bậy. Một là, đã xảy ra những hành động quá trớn với quy mô cực lớn trong việc tập thể hóa. Hai là, đã có những sai lầm nghiêm trọng trong phần đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Rất nhiều bí thư đảng ủy là những người kém văn hóa. Vậy làm sao họ có thể giám sát việc xây dựng những công trình công nghiệp khổng lồ. Họ ra sức chỉ đạo mà chẳng hiểu gì. Bởi vậy điều đó đã làm gia tăng sự bất mãn từ phía nông dân, công nhân, kỹ sư, và bản thân họ cũng cảm nhận rõ tình hình ấy.
* Đã hình thành một đội ngũ kỹ thuật, đã có nhiều sự thay đổi, khó lòng mà che giấu được điều gì.
– Những người lãnh đạo đảng ở các địa phương sợ rằng, nếu diễn ra cuộc bầu đúng nghĩa thì cùng với họ sẽ xuất hiện thêm một vài ứng viên khác nữa. Có thể họ sẽ không trúng. Mà đã không là đại biểu Xôviết tối cao, thì có nghĩa là ngồi chơi xơi nước chờ đến khi Ban tổ chức TW ở Moskva bảo: “Đồng chí này, nhân dân không ủng hộ đồng chí nữa. Vậy đồng chí hãy tìm một công việc nào hợp với sức mình hoặc chịu khó đi học nhé!”. Vào những năm đó, Stalin đã nhiều lần nói: Không hiểu sao, một người giữ chức vụ cao lại cho rằng, cái gì mình cũng biết nhưng kỳ thật thì chẳng biết gì. Đó là một sự ám chỉ thẳng thừng khiến cho phái đảng trị giật mình, phải cảnh giác.
Và họ đã liên kết lại với nhau như bất kỳ một phường hội nào, buộc Stalin phải hủy bỏ từ cuộc bầu cử có lựa chọn vào năm 1937, và, xét về thực chất, đã hạ uy tín của ông.
Người ta đã thử ngừng các cuộc trấn áp trong tháng 2 năm 1938, tại Hội nghị TW thường kỳ. Malenkov, Trưởng ban tổ chức TW đã phát biểu, công khai phê phán những người đặc biệt hăng hái trong việc này. Ông hỏi Postyshev (trước công tác tại Ukraina, nay là bí thư thứ nhất tỉnh Kuibyshev): Trong tỉnh mình, đồng chí đã lần lượt bỏ tù tất cả các cán bộ của chính quyền, của đoàn thanh niên Komsomol, của tổ chức đảng, vậy đồng chí còn định bắt giam bao nhiêu người nữa? Postyshev thản nhiên: “Tôi đã, đang và sẽ còn bắt giam nữa. Đó là trách nhiệm của tôi”. Malenkov hỏi Bagirov, bí thư thứ nhất Azerbaidzhan: Tại sao đồng chí lại có thể ký lệnh bắt giam và xử bắn, song thậm chí không ghi rõ danh tính mà chỉ ghi số lượng những người bị bắt và bị xử bắn. Bagirov lặng thinh.
Stalin cần khẩn cấp sa thải Bộ trưởng dân ủy nội vụ Ezhov là kẻ đã tiến hành những vụ trấn áp vô tiền khoáng hậu. Trước hết, ông cho gọi Berija từ Tbilisi, là người vừa được chọn làm bí thư đảng ủy vùng Zakavkaz’e, đến Moskva để giữ chức Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh quốc gia, một bộ phận của Bộ dân ủy nội vụ chuyên việc trừng phạt. Berija không thể hợp tác được với Ezhov. Cuối tháng 11 năm 1938, Ezhov được mời đến gặp Stalin. Trong phòng lúc đó có cả Voroshilov và Molotov. Sau nhiều giờ trao đổi thẳng thắn, và cả thuyết phục, Ezhov buộc phải viết đơn xin từ chức. Và Berija được bổ nhiệm làm Bộ trưởng dân ủy nội vụ.
Ngay sau đó, hơn một triệu người được thả khỏi các trại cải tạo. Đồng thời Berija tiến hành thanh lọc Bộ dân ủy nội vụ. Trong bộ này, phần lớn dân Do Thái có trình độ văn hóa thấp thuộc diện cán bộ cao cấp và trung cấp. Hầu như tất cả bọn họ đều bị sa thải.
Một lớp cán bộ mới đã tốt nghiệp đại học hoặc đang học dở năm thứ ba, năm thứ tư, chủ yếu là người Nga, được tuyển dụng. Lúc ấy, những vụ bắt bớ mới bắt đầu giảm hẳn.
Khi chúng ta nói về điều 58 thì không nên quên một chuyện. Một nữ đồng nghiệp của tôi là chị Galina Mikhailovna Ivanova, tiến sĩ sử học, đã có một phát hiện đáng chú ý để hiểu rõ hơn về thời kỳ đó. Trước và sau chiến tranh, những tên tội phạm chuyên nghiệp, theo quy định, không được làm việc. Và chúng cũng không làm việc. Nhưng cứ nửa năm một lần, tòa án lưu động lại ghé thăm các trại giam và xem xét các vụ phạm nhân vi phạm chế độ thụ án. Những ai từ chối làm việc thì bị kết tội phá hoại ngầm. Mà tội phá hoại ngầm là thuộc điều 58. Bởi vậy, cần phải thấy rằng, bị xét xử theo điều luật này không chỉ có những kẻ thù chính trị của “nhóm Stalin” hoặc những người bị quy vào điều đó, mà còn có cả những phạm nhân từ chối làm việc. Và, lẽ dĩ nhiên, có cả những tên gián điệp chính cống, những tên biệt kích, mà loại tội phạm này không phải là ít.
Không thể không nhắc tới một sự kiện là vào tháng 5 năm 1937, đã diễn ra vụ án về cái gọi là mưu phản trong Bộ dân ủy quốc phòng (NKO).
Sau này lưu truyền một huyền thoại rằng, gần như toàn bộ đội ngũ cán bộ chỉ huy cốt cán của quân đội và hải quân đều bị trấn áp. Nhà nghiên cứu O.F. Suvenirov đã cho ra một cuốn sách với những số liệu (không trừ một ai) về các quân nhân bị bắt vào những năm 1935-1939: Danh tính, ngày sinh, chức vụ, khi nào bị bắt, án phạt. Một cuốn sách dày cộm. Té ra 75 phần trăm những quân nhân bị trấn áp chỉ là các chính ủy, các luật sư quân đội, cán bộ quân nhu, bác sĩ quân y, kỹ sư quân đội… Bởi thế ý kiến cho rằng dường như toàn bộ ban chỉ huy quân đội đã bị xóa sổ là một câu chuyện hoang đường.
… Có một chi tiết đáng chú ý. Khi Stalin báo cáo tại Hội đồng quân sự về “vụ mưu phản mang tính chất chính trị – quân sự” thì ông chú mục vào một điểm: vụ mưu phản trong Bộ dân ủy quốc phòng là phần kết thúc của một vụ án khác xảy ra vào năm 1935 mang cái tên “Mớ bòng bong”.
* Tôi nghĩ rằng không phải ai cũng hiểu vụ án đó là như thế nào.
– Cuối năm 1934, anh rể của Stalin (trong cuộc kết hôn đầu tiên) từng công tác trong lãnh vực tài chính, đã viết thư cho Stalin thông báo rằng, đang có một vụ mưu phản chống lại nhóm trung ủy của ông. Những ai có chân trong nhóm ấy? Bản thân Stalin, Molotov – người đứng đầu chính phủ, Ordzhonikidze – người chỉ đạo việc xây dựng ngành công nghiệp nặng, Voroshilov – bộ trưởng bộ dân ủy quốc phòng, Litvinov – bộ trưởng bộ dân ủy ngoại giao, người thi hành chính sách tích cực nhằm xích gần lại với các chế độ dân chủ phương Tây, Vyshinski, Viện trưởng Viện kiểm sát Liên Xô từ năm 1935, người đã trả tự do cho tất cả những ai bị trục xuất khỏi Leningrad sau vụ Kirov bị sát hại, đã thả gần 800 ngàn nông dân bị lâm nạn bởi cái gọi là “vụ án ba bông lúa”. Nằm trong nhóm này còn có Zhdanov, người đã thay thế Kirov ở Leningrad, và hai nhân vật rất quan trọng trong bộ máy của UBTW đảng: Steski, trưởng ban tuyên truyền cổ động và Jakovlev (Egshtein), người sáng lập hai tờ báo được phổ biến rộng rãi nhất – “Nông báo” và “Dân nghèo”, một ký giả có tài. Cũng như Steski, Jakovlev là ủy viên Ủy ban Hiến pháp, nhưng chủ yếu là tác giả của bộ luật bầu cử.
Sau Hội nghị TW năm 1937 đã được nhắc tới mà ở đó những người theo phái đảng trị chỉ bề ngoài ủng hộ luật bầu cử, Steski và Jakovlev bị bắt và bị xử bắn. Người ta không nhắc tới hai nhân vật này, nhưng lại than khóc cho số phận của Tukhachevski, Uborevich, Jankir** và những người khác.
* Tôi đã từng nghe một định nghĩa: năm 1937 là ngày hội trừng phạt đối với đội cận vệ của Lênin, còn năm 1934 và năm 1935 là sự chuẩn bị cho ngày hội đó.
– Một nhà thơ vốn tư duy bằng hình tượng thì có thể nói như vậy. Nhưng vấn đề ở đây đơn giản hơn. Thậm chí sau khi Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, Lênin, Trotski, Zinov’ev và nhiều người khác không suy nghĩ một cách nghiêm túc rằng chủ nghĩa xã hội sẽ thắng lợi ở nước Nga lạc hậu. Họ đặt hy vọng vào những nước có nền công nghiệp phát triển như Mỹ, Đức, Anh, Pháp. Bởi lẽ chính nước Nga dưới thời Sa hoàng, xét về trình độ phát triển công nghiệp, đã đứng sau nước Bỉ nhỏ tí xíu. Người ta đã quên mất điều đó. Và lấy làm tự hào về nước Nga(!). Nhưng trong cuộc Đại chiến thế giới lần thứ I, chúng ta đã phải mua vũ khí của người Anh, người Pháp, người Nhật, người Mỹ.
Ban lãnh đạo Bônsêvích chỉ hy vọng vào cách mạng ở Đức. Về điều này Zinov’ev đã viết rất rõ trên tờ “Pravda”. Ông ta nói rằng chỉ khi nào nước Nga liên kết với nước Đức thì nó mới có thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội.
Trong khi đó, ngay từ mùa hè 1923, Stalin đã viết cho Zinov’ev: “Thậm chí chính quyền từ trên trời rơi vào tay đảng cộng sản Đức thì nó cũng không thể giữ nổi”. Stalin là người duy nhất trong giới lãnh đạo không tin vào Cách mạng Thế giới. Ông cho rằng sự quan tâm chủ yếu của chúng ta là nước Nga Xôviết.
Chuyện gì xảy ra tiếp đó? Cách mạng không nổ ra ở Đức. Còn ở ta có Chính sách kinh tế mới (NEP). Sau mấy tháng, đất nước đã khóc rống lên. Các xí nghiệp đóng cửa, hàng triệu người thất nghiệp. Các công nhân còn việc làm thì được lĩnh lương chỉ bằng 10-20% số tiền họ được lĩnh trước cách mạng. Đối với nông dân thì chế độ trưng thu lương thực thừa được thay bằng thuế lương thực, song thứ thuế này cao đến mức nông dân không chịu nổi. Nạn trộm cướp gia tăng. Để có lương thực nộp thuế và nuôi gia đình, những người bần nông đã liều lĩnh tấn công các đoàn tầu hỏa. Tệ nạn này cũng phổ biến trong giới sinh viên: để có tiền ăn học, họ đã trấn lột bọn nhà giàu phất lên nhờ chính sách kinh tế mới. NEP đã dẫn tới kết quả gì? Nó đã làm hư hỏng các cán bộ của đảng, của chính quyền Xôviết. Nạn hối lộ tràn lan khắp nơi. Chủ tịch Xôviết nông thôn, cảnh sát đều ăn tiền trong bất cứ một dịch vụ nào. Các giám đốc nhà máy sửa chữa nhà cửa của mình và mua sắm những đồ xa xỉ bằng tiền của xí nghiệp. Cứ như thế từ 1921 đến tận 1928…
Trotski và cánh tay phải của ông ta trong lĩnh vực kinh tế là Preobrazhenski đã nghĩ cách chuyển ngọn lửa cách mạng sang châu Á và đào tạo cán bộ tại những nước cộng hòa phương Đông của nước Nga, đồng thời cấp tốc xây dựng ở đó những nhà máy để “bồi dưỡng” giai cấp vô sản ở địa phương.
Stalin đưa ra một phương án khác: xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một nước riêng biệt. Hơn nữa, ông chưa lần nào nói, bao giờ thì chủ nghĩa xã hội sẽ được xây dựng xong. Ông bảo: xây dựng! Sau đó một vài năm, nói rõ thêm: cần phải xây dựng nền công nghiệp trong 10 năm. Ngành công nghiệp nặng. Nếu không thì chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Ý kiến đó được phát biểu vào tháng 2-1931. Stalin hơi bị nhầm lẫn một chút về thời gian. Sau 10 năm và 4 tháng, nước Đức đã tấn công Liên Xô.
Sự khác biệt giữa nhóm của Stalin và những người Bônsêvich cứng rắn mang tính chất nguyên tắc. Dù họ thuộc cánh tả như Trotski và Zinov’ev hay thuộc cánh hữu như Rykov và Bukharin – điều đó không quan trọng. Tất cả bọn họ đều đặt niềm hy vọng vào cách mạng ở châu Âu… Do đó, thực chất của vấn đề không phải là trừng trị, mà là đấu tranh gay gắt để xác định đường lối phát triển đất nước.
* Ông muốn nói rằng cái thời kỳ, mà dưới con mắt của nhiều người được coi là thời kỳ xảy ra những vụ trấn áp của Stalin, xét về một phía khác, là sự cố gắng nhằm xây dựng chế độ dân chủ nhưng không thực hiện được do nhiều nguyên nhân?
– Hiến pháp mới phải dẫn tới điều này. Stalin hiểu rằng đối với con người ở thời kỳ ấy thì chế độ dân chủ là một cái gì đó chưa thể đạt tới được. Bởi lẽ đối với một học sinh lớp một thì không thể đòi hỏi những kiến thức của toán cao cấp. Hiến pháp năm 1936 là một bộ y phục quá rộng, may để phòng hao. Hãy lấy tình hình nông thôn làm một ví dụ. Sẽ được thành lập Ủy ban đường phố, các cư dân của 10 – 12 hộ bầu ra một người chịu trách nhiệm về tình trạng làng xóm. Tự mình cai quản nhau. Không ai ra lệnh cho họ cả. Đó là ý đồ học cách quan tâm đến cộng đồng, đến nề nếp trật tự công cộng. Và sau đó cứ thế mà đi tiếp… Mọi người quen dần với việc tự quản. Chính vì thế, dưới chính quyền Xôviết, hệ thống quyền lực được áp đặt từ trên xuống theo chiều thẳng đứng sẽ dần dần bị triệt tiêu.
Nhưng chúng ta đã bị tước mất tất cả những điều đó bởi những cải cách giả hiệu vào đầu những năm 90. Cần phải hiểu rằng chúng ta đã mất đi những cơ sở của nền dân chủ. Hiện nay người ta bảo: chúng tôi trả lại việc bầu chọn những người đứng đầu cơ quan hành chính, việc bầu chọn các thị trưởng, việc bầu chọn trong đảng cầm quyền… Nhưng, thưa các bạn, điều đó đã từng có, chúng ta đã từng có tất cả những thành tựu ấy.
Stalin, khi bắt đầu những cải cách chính trị vào năm 1935, đã phát biểu một tư tưởng quan trọng: “Chúng ta cần phải giải phóng Đảng, thoát khỏi hoạt động kinh tế”. Nhưng ông liền nói rõ thêm rằng, việc đó sẽ không nhanh chóng được đâu. Malenkov cũng đã nói về điều này tại Hội nghị TW lần thứ 18 vào tháng 2-1941. Lại còn một sự kiện vào tháng 1-1944, Hội nghị TW duy nhất trong những năm Vệ quốc. Bộ Chính trị đã nhóm họp trước đó, xem xét bản dự thảo nghị quyết do Stalin, Molotov, Malenkov ký. Bản dự thảo gồm 5 trang, nói rõ: Các khu ủy, tỉnh ủy, huyện ủy, thành ủy đã tuyển dụng những cán bộ thông minh nhất và tài năng nhất, nhưng chả đem lại lợi ích gì. Họ ra lệnh về tất cả những vấn đề của cuộc sống, nhưng nếu như thực hiện sai thì các cơ quan Xôviết là những người chấp hành phải chịu trách nhiệm. Bởi vậy bản dự thảo đề ra việc: nên giới hạn hoạt động của các đảng ủy ở việc tuyên truyền, cổ động và tham gia vào công tác tuyển chọn cán bộ. Tất cả những phần việc còn lại là công việc của các cơ quan chính quyền (tức các Xôviết). Bộ Chính trị đã bác kiến nghị đó, mặc dầu nó mang ý nghĩa của việc cải cách Đảng.
Còn sớm hơn nữa, vào năm 1937, khi thảo luận về luật bầu cử, Stalin đã đưa ra một nhận xét: “Thật may, hoặc không may, là chúng ta chỉ có một Đảng”. Rõ ràng, trong một thời gian dài ông đã trở đi trở lại với suy nghĩ là cần phải đưa các cơ quan của chính quyền nhà nước thoát khỏi sự giám sát quá cứng nhắc của Đảng. Nhưng ông đã qua đời và không đạt được ý tưởng này.
* Tiện thể xin nói thêm rằng sau cái chết của Stalin, tiêu điểm của sự chú ý thường được chuyển sang những sự kiện như việc Berija bị bắt và bị xử bắn. Liệu có phải đó là sự kiện quan trọng nhất không?
– Sau khi Stalin qua đời, người đứng đầu chính phủ Liên Xô là Malenkov, một trong những chiến hữu gần gũi nhất của Stalin, đã cắt bỏ những khoản trợ cấp ưu đãi đối với tầng lớp cán bộ cao cấp của đảng. Chẳng hạn, việc cấp phát hàng tháng một món tiền (“phong bao”) gấp hai, ba lần, có khi tới năm lần so với số tiền lương. Và những tiêu chuẩn nhà điều dưỡng, xe ô tô riêng, chế độ phục vụ đặc biệt… Đồng thời nâng lương cho các cán bộ cơ quan nhà nước lên 2-3 lần. Các cán bộ đảng, theo thang giá trị phổ biến, trở nên thấp hơn nhiều so với các cán bộ nhà nước.
Đợt tiến công vào những quyền lợi ngấm ngầm của tầng lớp cán bộ đảng cao cấp kéo dài được ba tháng. Các cán bộ này liền cấu kết với nhau và lên tiếng khiếu nại với bí thư TW Khrushchev. Họ yêu cầu được hưởng chí ít một chút gì mà những người khác không có.
Khrushchev đã hủy bỏ quyết định ấy, tất cả “những mất mát” được hoàn lại cho tầng lớp cán bộ cao cấp của đảng một cách hậu hĩnh. Và Khrushchev, tại Hội nghị TW tháng chín, được nhất trí bầu làm Bí thư thứ nhất, mặc dầu tại Hội nghị TW tháng ba, mọi người đã quyết định xóa bỏ chức vụ này và chuyển sang chế độ lãnh đạo tập thể.
Sau đó ít lâu, Malenkov được điều đến làm việc ở Ural. Bắt đầu một thời kỳ thỏa hiệp vô nguyên tắc – nếu nói về hệ thống cấu trúc nội tại của chính quyền, khi tầng lớp cán bộ cao cấp của Đảng (bằng việc thuyên chuyển quanh co từ các cơ quan Nhà nước sang các cơ quan Đảng và ngược lại) càng ngày càng trở nên lộng hành hơn. Và đánh mất khả năng cảm nhận được thời đại, khiến cho đất nước ngừng phát triển. Hậu quả là tình trạng trì trệ, là sự thoái hóa của Chính quyền đã dẫn tới những biến cố năm 1991 và 1993.
* Như vậy là những quyết định vừa được nhắc tới của Malenkov – đó là những hoài bão không thực hiện được của Stalin?
– Có rất nhiều cơ sở để coi là hư vậy.
* Đó là sự phục thù thực sự của tầng lớp cán bộ đảng cao cấp nhằm trả đũa.
– Tất nhiên rồi. Đánh giá những năm đó, ta có thể khẳng định rằng, Stalin mong muốn tạo ra một nền kinh tế hùng mạnh và đã đạt được điều đó. Chúng ta đã trở thành một trong hai siêu cường, dù chỉ sau khi ông qua đời, nhưng chính ông là người đặt nền móng.
Ông mong muốn hạn chế bớt quyền lực của các quan chức, ông cố gắng bồi dưỡng nền dân chủ cho nhân dân để nó được thực hiện, dù phải qua mấy thế hệ nữa, song ông ao ước nó thấm vào máu thịt của nhân dân. Tất cả những điều này đã bị Khrushchev hủy bỏ. Sau đó là cả Brezhnev… Kết quả là bộ máy của Đảng và bộ máy của Nhà nước nhập làm một, với phong cách của chế độ đảng trị: lãnh đạo nhưng không hề chịu trách nhiệm. Trước đây còn có những đòn bẩy kiểm tra. Chẳng hạn nếu ở nơi anh sống có chuyện gì không ổn, mà đó là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, anh có thể khiếu nại đến quận ủy, ở đó người ta sẽ xem xét. Từng tồn tại Ủy ban kiểm tra Xôviết, Ủy ban kiểm tra nhân dân. Đó cũng là công cụ giám sát các quan chức.
Sau vụ phản cách mạng năm 1991 – 1993, các quan chức được giải phóng khỏi mọi kiểu giám sát có thể có, do đó họ tha hồ lộng hành và ngày càng trở nên tệ hại hơn.
***
Lê Sơn giới thiệu và dịch
(Theo Literaturnaja Gazeta, số 28, tháng 7/2012)
• JURI NIKOLAEVICH ZHUKOV (sinh năm 1938), nhà sử học Nga, tiến sĩ các khoa học lịch sử, nghiên cứu viên cao cấp của Viện lịch sử Nga trực thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga (RAN). Tác giả của nhiều công trình về lịch sử Liên Xô, về Stalin và “thời kỳ Stalin.
• **Tukhachevski M.N (1893 – 1937) Nguyên soái Liên Xô. Ubrevich I.P (1896 – 1937) Tư lệnh tập đoàn quân, Jankir I.E (1896 – 1937) Tư lệnh tập đoàn quân. Cả ba người này bị kết tội tham gia vào vụ mưu phản và đều bị xử bắn năm 1937(LS)
Nguồn: Sự thật về năm 1937 ở Liên Xô - Lê Sơn - Tạp chí Nghiên cứu lịch sử - Số 8 - 8/2013 - Tr. 71 - 79

Liên quan:

MỘT KHÍA CẠNH Ở NHÀ BÁO VŨ TRỌNG PHỤNG:
NGƯỜI LƯỢC THUẬT THÔNG TIN QUỐC TẾ

Lại Nguyên Ân
Cách đây hơn ba chục năm, việc phát hiện ra rằng trong di sản Vũ Trọng Phụng có một bài báo dài nhan đề Nhân sự chia rẽ giữa Đệ Tam và Đệ Tứ…(1937) đã tạo thuận lợi quyết định cho ý đồ loại trừ Vũ Trọng Phụng khỏi văn học sử nước nhà. Đương nhiên, việc lấy những phát ngôn chính luận thay thế các sáng tác văn học của cùng một tác giả văn học nhằm định giá tác giả ấy − bản thân phương thức đó đã là không xác đáng trong nghiên cứu văn học. Tuy vậy, chúng tôi không có ý định đề nghị giới nghiên cứu bỏ qua các phát biểu chính luận của nhà văn, dẫu sự nghiệp của nhà văn chủ yếu là các sáng tác nghệ thuật.
Trường hợp Vũ Trọng Phụng, ông không chỉ có những phát biểu theo lối tùy hứng, "tạt ngang", phụ trợ. Đối với ngòi bút ông, chức phận nhà văn và chức phận nhà báo là đồng thời, song song, ít nhất là do mưu sinh: ông không có thu nhập nào khác ngoài những gì được trả cho ngòi bút đã trót chuyên nghiệp hóa của mình.
Tuy nhiên, đề tài nhà báo Vũ Trọng Phụng vẫn còn là quá rộng đối với tôi lúc này. Tôi chỉ dám đề cập đến một khía cạnh nhỏ nhân đọc lại bài báo dài nêu trên, để hình dung đôi nét về ông như một người tóm lược thời sự quốc tế. Tôi cho sẽ là thú vị cho chúng ta khi đọc lại bài báo này ở thời điểm hôm nay, với những thông tin mới, những gợi mở mới cho cách nhìn mà chỉ công cuộc cải tổ của Liên Xô cũng như tinh thần đổi mới ở ta mới có thể đem lại cho chúng ta.
1/ Để thuận tiện bước đầu, chúng tôi thấy cần phải cho rằng: Việc giới nghiên cứu từ những năm 1960 trở đi căn cứ vào bài báo dài này và một số trích dẫn khác trong tác phẩm báo chí và văn học của Vũ Trọng Phụng để kết luận về thái độ chính trị "đả kích cộng sản, bôi nhọ Liên Xô" của nhà văn − xin tạm coi kết luận ấy là có thể hiểu được. Cứ giả định rằng bài viết nói trên của Vũ Trọng Phụng đã có tác dụng xấu đối với phong trào cách mạng đương thời. Điều chúng ta quan tâm là: ngoài tác hại khách quan ấy, bài báo trên còn những gì khả thủ về mặt thông tin các hiểu biết lịch sử ở bên ngoài biên giới nước mình? Và đối chiếu với tư liệu quốc tế ngày hôm nay thì sự thông tin của Vũ cách đây nửa thế kỷ trùng hợp hay sai lệch với mức độ ra sao?
2/ Đọc lại bài báo dài này của Vũ Trọng Phụng, chúng ta sẽ thấy đây là hình thức lược thuật, bình thuật, tổng thuật tình hình. Văn tài của tác giả có vẻ như ở đây không bộc lộ gì nhiều. Chỉ là một cách kể chuyện với độc giả trong nước về một đề tài thời sự-lịch sử quốc tế. Khối lượng tài liệu tác giả sử dụng hẳn là không nhỏ. Qua cách lược thuật của Vũ Trọng Phụng, có thể thấy sự kiện cách mạng tháng Mười và sự ra đời và tồn tại của nhà nước Xô Viết đã thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của nhà báo Vũ Trọng Phụng. Cũng qua đây, có thể thấy thiện cảm (chứ không phải ác cảm) của Vũ Trọng Phụng đối với nhà nước công nông đầu tiên này trên thế giới. Đặc biệt Vũ Trọng Phụng tỏ ra thán phục không che dấu đối với tài năng và nghị lực của Lênin (mà có chỗ ông mệnh danh là "đấng Cứu thế Đỏ"). Ông cũng tỏ ra hết sức thông cảm với những khó khăn khổng lồ mà chính quyền vô sản non trẻ ở nước Nga vấp phải, ông tỏ ra khâm phục sức lực và ý chí của nhân dân Nga trong việc theo đuổi lý tưởng cộng sản (xin khỏi dẫn các đoạn của bài báo, cho gọn).
Bài báo được viết năm 1937, gần như ngay sau "vụ án Moscou" chấn động thế giới. Qua bài viết có thể thấy chính Vũ Trọng Phụng cũng tỏ ra bàng hoàng trước cái việc mà ông gọi là "cuộc xâu xé của những tay đồng chí cũ". Tuy vậy bài báo của ông không chứng tỏ là ông xoay ngược thái độ thiện cảm của ông đối với cách mạng tháng Mười và nhà nước kiểu mới. Vũ Trọng Phụng quy trách nhiệm cho Stalin, cho "khuynh hướng về một chế độ độc tài của dân tiểu tư sản" của Stanlin.
Số phận Quốc tế thứ ba và sự chia rẽ, mâu thuẫn giữa Đệ Tam và Đệ Tứ không phải là nội dung của bài báo này mặc dù nó là cái cớ để ông viết bài bình thuật. Ở phần cuối bài báo, ông chỉ nêu lên hiện tượng gây ngạc nhiên là chính những bạn chiến đấu cũ của Lênin lại công khai nhận tội phản bội trước tòa trong vụ án 1937, và ông cắt nghĩa ở phương châm hành động "Mọi phương tiện đều tốt" − chính sách kiểu Machiavelli − mà ông cho là người cộng sản đã sử dụng. Từ đây ông suy luận về sự chia rẽ giữa Đệ Tam và Đệ Tứ, coi như là một cuộc tranh đoạt quyền lực thông thường. Điều này tất nhiên là đặc trưng cho cách nhìn của người đứng ngoài và đứng xa hàng ngũ của phong trào cộng sản quốc tế, phản ánh cả tình trạng thiếu thông tin lẫn sự thiếu hiểu biết và định kiến của tác giả. Tuy nhiên, cách suy nghĩ này không phải chỉ là cá biệt của Vũ Trọng Phụng (dưới đây sẽ đối chiếu với suy nghĩ và cắt nghĩa tương tự của Brecht, Becher vài chục năm sau đó).
3/ Đặt trong bối cảnh của thông tin hiện nay, nhất là những thông tin tư liệu lịch sử chỉ được biết đến rộng rãi do kết quả của phương hướng công khai hóa và dân chủ hóa mà công cuộc cải tổ đem lại, chúng tôi sơ bộ thấy:
Về đại thể, bài báo dài này của Vũ Trọng Phung, tuy đã trở nên khá sơ giản thậm chí rất sơ giản trong việc trình bày các sự kiện lịch sử, nhưng nhìn chung không xuyên tạc lịch sử cách mạng tháng Mười và 20 năm đầu của chính quyền Xô Viết, càng không có biểu hiện của thái độ bài Xô (anti-sovietique), cũng không có biểu hiện rõ rệt của thái độ chống cộng sản (mặc dù không đứng trên lập trường cộng sản và khá ít hiểu biết về chủ nghĩa cộng sản, phong trào cộng sản và người cộng sản).
Tìm ra và liệt kê những sự sơ giản thậm chí thiếu chính xác trong bài báo dài của Vũ Trọng Phụng là điều không mấy khó khăn. Song bên cạnh đó lại có khá nhiều điểm tỏ ra trùng hợp với những tài liệu mới biết đến gần đây. Thí dụ:
− Vũ Trọng Phụng viết: "vào đầu 1923, giữa Lênin và Stalin có cuộc xung đột về tư tưởng. Lênin bắt đầu bình phục, và cũng làm việc nữa, chỉ ít lâu thì sẽ cắt bớt thế lực của Stalin đi", thì gần đây trên báo Tin tức Moskva (số 4/1989, ngày 24/1) đăng bài Đụng độ cuối cùng do chính tổng biên tập báo này Egor Jakovlev viết, công bố những tài liệu cụ thể của sự kiện trên.
− Việc giải tán quốc tế cộng sản liên quan đến quyết định của Stalin do nhượng bộ F. Roosevell và W. Churchill năm 1943 (dẫn theo: Roy Medvdev, Chân dung chính trị Molotov, đăng trên tạp chí Junost,  số 4-1989).
− Việc Vũ Trọng Phụng khi bình thuật đã quy phần lớn trách nhiệm làm suy yếu cách mạng, suy yếu Liên Xô cho Stalin, giờ đây, nhận định này trở nên thông dụng, phổ biến trong dư luận báo chí Xô Viết. Phương hướng này ở giới sử học Xô-viết còn mạnh mẽ hơn nữa, đồng thời phương hướng này đang có một quy mô quần chúng rộng rãi, với việc thành lập Hôi "Memorial" (Hội liên lạc và cứu trợ những nạn nhân của chủ nghĩa Stalin) và tính chất quần chúng rộng lớn của hội này. (Tất nhiên có thể còn có nhiều tư liệu đích đáng hơn mà nhiều người đã đọc, tôi chỉ xin dẫn ra một số tư liệu ghi được trong phạm vi đọc của tôi).
Ở trên, tôi có nhận  xét rằng ở bài báo dài này, Vũ Trọng Phụng chỉ hiện diện như một người lược thuật, mức cao hơn là bình thuật và chỉ đôi chỗ mới có đôi nét của nhà bình luận. Ở trên cũng đã nói ý định cắt nghĩa động cơ nhận tội phản bội của những người vốn là chiến hữu của Lênin trong vụ án 1937. Trước đó khi nói đến "cuộc xâu xé của những tay đồng chí cũ", tuy không nói rõ ra, nhưng có vẻ như Vũ Trọng Phụng hình dung sự việc này tương tự như những điều thường xảy ra ở phương Đông sau khi một triều đại được thiết lập. Ý đồ cắt nghĩa động cơ nhận tội của 13 nạn nhân vụ án 1937, khác hơn một chút, lại gắn với nhận xét về "thủ đoạn kiểu Machiavelli". Ở đây bộc lộ những hoài nghi hoặc thiếu hiểu biết của Vũ Trọng Phụng về người cộng sản làm cách mạng, đấy làm một mặt. Mặt khác "hoài nghi kiểu trí thức" này của ông không cá biệt. Về "vụ án 1937", về tính chất trấn áp, bạo lực… của cách mạng Nga, nhiều trí thức văn nghệ sĩ cỡ lớn cũng từng suy nghĩ, cắt nghĩa theo những hướng khác nhau. Xin dẫn vài ví dụ:
− 1931, sau khi thăm Liên Xô về, kịch tác gia Anh B. Shaw viết cuốn sách Nhận thức lý tính về nước Nga (Rationnalisation of Russia) trong đó cố ý bỏ qua các khái niệm nhân đạo, luật pháp để hiểu cách mạng Nga. "Một cuộc cách mạng tiến hành thắng lợi phải đưa những người tham gia và ủng hộ nó đến sự tuyệt vọng bi đát" − "Ở thời điểm cách mạng hiện hình thành chính phủ, nó thế tất phải bắn bỏ các nhà cách mạng" − "Tôi không trách chính phủ Xô-viết đã không đem lại sung sướng cho những thiên thần của cách mạng… tôi càng ít trách chính phủ ấy vì đã bắn bỏ những người vô chính phủ và những người theo chủ nghĩa công đoàn từng là chiến hữu, là đồng chí đồng cam cộng khổ trước đây". Tuy biện hộ nhưng tác dụng lại ngược chiều. Dẫu vậy các nhà nghiên cứu Liên Xô hiện nay vẫn coi Shaw như là một trong số những nhà văn nước ngoài đầu tiên động đến những vấn đề nhức nhối nhất của xã hội Xô-viết do tiếp nhận thử nghiệm chủ nghĩa xã hội theo mô hình Stalin (Dẫn theo T.L. Motyleva: Bạn bè của tháng Mười và những vấn đề của chúng ta. "I.L." [Văn học nước ngoài”], số 4/1988, tr.161).
− Cuốn sách Liên Xô về (Retour de l' URRS, 1936) của André Gide (mà đương thời đã gây tranh luận ồn ào trong giới trí thức, văn nghệ sĩ châu Âu; ngay hồi ấy cũng là cuốn sách khá phổ biến trong giới trí thức, văn nghệ sĩ ở nước ta), gần đây đã được in lại ở Liên Xô, và với cuốn sách này A. Gide được coi là "người đầu tiên trong số các nhà hoạt động văn hóa nước ngoài đã đánh lên tín hiệu về các hình thức quái đản do chấp nhận tệ sùng bái cá nhân Stalin" (T.L: Motyleva, bài báo dẫn trên).
− 1956, trước khi mất ít lâu, Bertolt Brecht có một bài báo Về sự phê phán Stalin, dưới hình thức đề cương. Ở điểm (4) ông viết: "Việc tiêu diệt sự dã man tư bản chủ nghĩa có thể tự thân nó đã bộc lộ những nét của sự dã man. Trật tự dã man nảy sinh bằng cách như vậy ngay từ đầu có thể đã chứa đựng những nét của tính phi nhân, do chỗ − như Marx đã viết − giai cấp vô sản được nuôi dưỡng trong những hoàn cảnh thiếu tính người. Cách mạng cùng một lúc tháo cởi ở con người cả những phẩm hạnh kỳ diệu lẫn những thói tật thâm căn cố đế" (dẫn theo tư liệu trên, tr.170).
− 1956, sau đại hội XX Đảng CSLX, nhà thơ CHDC Đức Johannes Robert Becher tự phê bình những ảo tưởng của mình về chủ nghĩa xã hội, cho quan niệm của mình là tiểu tư sản tiểu thị dân, cho nguyên nhân là ở ý muốn nôn nóng biện hộ cho một kiểu thực nghiệm chủ nghĩa xã hội mới chỉ đang bắt đầu. "Những ai suy nghĩ và mơ ước về chủ nghĩa xã hội như thiên đường trên mặt đất, những người ấy sẽ nhận ra rằng chế độ xã hội chủ nghĩa đẻ ra kiểu người sẵn sàng làm tất cả nếu không trực tiếp áp dụng các phương pháp dã man thì cũng không dứt khoát từ chối các phương pháp ấy, và những minh chứng về điều này thì chỉ vừa mới đây thôi chúng ta mới có được, do chỗ các phương pháp ấy tỏ ra còn dã man hơn cả những gì đã được áp dụng trong quá khứ" (J. R. Becher, Tự kiểm duyệt // "Litteraturnaya Gazeta" số 30, ngày 27/7/1988).
4/ Trở lại với nhận định hồi những năm 1960 về bài báo này của Vũ Trọng Phụng, tôi nghĩ là không cần tranh luận với nhận định về "tác hại khách quan" của bài báo này đối với phong trào cách mạng trong nước đương thời. Thậm chí, cũng cần thừa nhận nhận định ấy nếu nó là do chính những người hoạt động trong phong trào cách mạng đương thời nêu lên: sự xác nhận của họ đã là một sự kiện.
Về ý nghãi thông tin thời sự-lịch sử khách quan, như chúng tôi dẫn giải một số khía cạnh nêu trên, rõ ràng bài báo không xuyên tạc lịch sử, không "bôi nhọ cộng sản", "đả kích Liên Xô" như một số nhà nghiên cứu những năm 1960 đã quy kết.
Ở đây cần làm rõ một vài khía cạnh có quan hệ đến quan điểm lịch sử.
Chúng tôi lưu ý những đặc điểm về thời gian và tác giả bài báo: bài báo xuất hiện trong môi trường dư luận của xã hội thực dân, tức là người cộng sản và đảng cộng sản chưa nắm chính quyền, chưa làm chủ dư luận (hơn nữa thường bị cấm đoán, đàn áp). Tác giả bài báo tuy có quan tâm theo dõi (một cách tự nguyện) tình hình thế giới nhưng ông không đứng trong hàng ngũ đảng phái chính trị nào, thiện cảm và ác cảm với các xu hướng chính trị ở ông có những sự ngả nghiêng tuỳ từng thời điểm.
Chúng tôi cũng lưu ý đến bối cảnh những năm 1960 và tác giả của những nhận định nêu trên về bài báo của Vũ Trọng Phụng: Thời gian này xã hội miền Bắc đã qua 15 năm từ khi đảng cộng sản giành được chính quyền, đã hoàn toàn làm chủ và toàn quyền giám sát mọi hoạt động tinh thần, tư tưởng, ngôn luận. Do vậy việc đề cao người cộng sản và toàn bộ phong trào cộng sản (tại mọi thời điểm lịch sử của nó) trở thành một trong những khuôn mẫu bắt buộc của mọi phát ngôn trong dư luận, kể cả các phát ngôn thuần tuý tư liệu về lịch sử quá khứ. Khuôn mẫu này, quy phạm này đương nhiên là cũng trở thành tiêu chuẩn đánh giá lịch sử, kể cả lịch sử văn học.
Trường hợp Vũ Trọng Phụng, ông viết bài báo này trong thời điểm chưa xuất hiện quy phạm nêu trên, nhưng lại được xem xét vào thời thịnh hành của quy phạm ấy nên tất bị định giá theo yêu cầu của quy phạm ấy. Đây là một "ca" thông thường, "có thể hiểu được" như chúng tôi đã nêu từ đầu, tuy bản thân sự nhận định này lại vi phạm quan điểm lịch sử (nếu quan điểm lịch sử được coi như là "phải đặt sáng tác vào đúng thời điểm nó được viết ra để đánh giá nó"). Nhưng quan điểm lịch sử còn tính đến viễn cảnh: nếu những tư tưởng, nhận định, thậm chí là những thông tin mà đương thời đã khó được chấp nhận, nhưng lại tỏ ra chịu đựng được thời gian − dẫu chỉ là thời gian cần để thừa nhận độ tin cậy của những thông tin cũ, − thì quan điểm lịch sử lẽ nào lại không tính đến yếu tố này?
5/ Cuối cùng, trở lại với đề tài về bài báo dài và về bản thân nhà báo Vũ Trọng Phụng, chúng tôi không đánh giá thật cao về bài báo và tác giả của nó. Thậm chí với bài báo này, chúng tôi nghĩ không thể gọi tác giả của nó là nhà bình luận thời sự quốc tế được (Và điều này không phải là làm ra vẻ nghiêm khắc. Chúng ta biết rằng nền báo chí mấy chục năm qua cũng chỉ rõ rệt ở khuôn mặt tập thể. Hầu như nó chưa đẻ ra được nhà bình luận quốc tế nào mà tên tuổi và tiếng nói được độc giả thế giới quen thuộc và lưu ý lắng nghe). Với bài báo này, Vũ Trọng Phụng chỉ khiêm nhường là người đem những tư liệu đọc được ở báo chí nước ngoài, nhất là báo chí cấp tiến ở Pháp (trong đó có báo chí của đảng cộng sản) thuật lại với công chúng trong nước. Và chỉ ở đôi chỗ giữa dòng thuật lại kể lại ấy, ông mới chen vào đôi ba suy luận chưa thật hoàn chỉnh của mình. Về mức độ sự thật mà ông thông tin, ông cũng bị hạn chế ngang như (nếu không phải là nhiều hơn) những nguồn tư liệu sách báo mà ông thu nhận. Nếu trong những thông tin này có những điều sẽ được xác nhận rộng rãi thì đó cũng không phải do sáng suốt của cá nhân ông. Chẳng qua ông chỉ khách quan hơn trong việc xử lý các nguồn tin, lại cũng do ông không phải làm việc trong một môi trường dư luận có nhiều quy phạm, nhiều huý kỵ.
Tuy nhiên cũng sẽ không công bằng nếu không thấy mẫn cảm nhà văn có một vai trò nào đó, dù ít ỏi đến mấy, trong lựa chọn và xử lý thông tin của ông. Tôi muốn nghĩ đến mẫn cảm về sự thật là cái đã giúp ông rất nhiều khi xử lý các tài liệu đời sống gián tiếp để viết các tác phẩm văn học − phóng sự và tiểu thuyết. Có lẽ mẫn cảm ấy cũng đã làm lóa lên ở ông những nghi ngờ nào đó về cái sự thật bề sâu bên trong các phong trào xã hội chính trị ở quy mô quốc tế mà ông không có cách gì tìm biết.
Lưu ý đến những "chớp loé" ấy, đối chiếu nó với những tư liệu quốc tế về những phản xạ của giới nhà văn, giới trí thức nghệ thuật thế giới từ đầu thế kỷ này đối với sự kiện lớn nhất thế kỷ: cách mạng tháng Mười và sự ra đời nhà nước kiểu mới, − chúng ta thấy Vũ Trọng Phụng dù chỉ hoạt động trong một môi trường bó hẹp của văn học và báo chí nước nhà, nhưng những tình cảm của ông đối với sự kiện lớn này, thái độ của ông trước tính chất phức tạp của những sự kiện gắn với tệ sùng bái cá nhân Stalin − nói chung không xa lạ với trạng thái và tính chất các phản xạ của giới văn hóa thế giới đương thời, dù chúng ta chỉ mới tính đến những nhà văn hóa được coi là bạn bè của cách mạng tháng Mười, bạn bè của đất nước đầu tiên giành được chính quyền về tay công nông.
08/10/1989
● Tham luận tại Hội thảo khoa học kỷ niệm 50 năm ngày mất Vũ Trọng Phụng,
Văn Miếu, Hà Nội, 12/10/1989
“Tạp chí văn học”, s. 2/1990

Stalin và nhân dân Nga: tình yêu hay thù hận?

Trong thế kỷ XX, 3 lần nước Nga được cứu thoát chỉ nhờ vào tinh thần dân tộc. Lenin như một nhân vật trung dung, ít nhiều mang tinh thần Nga, Stalin là đại diện cho phe dân tộc Nga, có thể ông là người Nga theo nghĩa dân tộc cũng nên, nhưng dù sao thì phân biệt con người theo tư tưởng mới là chính xác. Vì thế cho nên Stalin bị phương Tây bôi nhọ là dễ hiểu, còn tàn bạo thì Trosky mới là bậc thầy. Cho đến tận ngày nay, hầu hết chống đối Liên Xô và Nga đều xuất phát từ Do Thái.
Trong bài, có toàn văn phát biểu của Stalin đọc trong ngày mừng thắng lợi 24/5/1945, rõ cái tinh thần dân tộc này, duy nhất tinh thần dân tộc Nga cứu nước Nga khỏi thảm họa:

"Товарищи, разрешите мне поднять еще один, последний тост.
Các đồng chí, cho phép tôi nâng cốc một lần nữa, lần cuối chúc mừng.
Я хотел бы поднять тост за здоровье нашего Советского народа и, прежде всего, русского народа.
Я пью, прежде всего, за здоровье русского народа потому, что он является наиболее выдающейся из наций, входящих в состав Советского Союза.
Tôi đã muốn được nâng cốc chúc mừng sức khỏe nhân dân Xô Viết chúng ta, và trước hết là nhân dân Nga.
Tôi uống, trước hết, là mừng cho sức khỏe nhân dân Nga, bởi vì họ là xuất sắc nhất trong các dân tộc, thành viên của Liên minh Xô Viết.
Я поднимаю тост за здоровье русского народа потому, что он заслужил в этой войне общее признание, как руководящей силы Советского Союза среди всех народов нашей страны.
Tôi nâng cốc chúc mừng sức khỏe nhân dân Nga, bởi vì trong cuộc chiến tranh này họ xứng đáng được công nhận chung là lực lượng lãnh đạo của Liên minh Xô Viết trong số các dân tộc của đất nước chúng ta.
Я поднимаю тост за здоровье русского народа не только потому, что он — руководящий народ, но и потому, что у него имеется ясный ум, стойкий характер и терпение.
Tôi nâng cốc chúc mừng sức khỏe nhân dân Nga không chỉ bởi vì – họ là người đứng đầu, mà còn bởi vì, họ có trí tuệ trong sáng, tính cách và lòng chịu đựng bền bỉ.
У нашего правительства было не мало ошибок, были у нас моменты отчаянного положения в 1941–1942 годах, когда наша армия отступала, покидала родные нам села и города Украины, Белоруссии, Молдавии, Ленинградской области, Прибалтики, Карело-Финской республики, покидала, потому что не было другого выхода. Иной народ мог бы сказать Правительству: вы не оправдали наших ожиданий, уходите прочь, мы поставим другое правительство, которое заключит мир с Германией и обеспечит нам покой. Но русский народ не пошел на это, ибо он верил в правильность политики своего Правительства и пошел на жертвы, чтобы обеспечить разгром Германии. И это доверие русского народа Советскому правительству оказалось той решающей силой, которая обеспечила историческую победу над врагом человечества, — над фашизмом.
Chính phủ chúng ta đã mắc không ít sai lầm, đã có khoảnh khắc ở trong tình thế tuyệt vọng trong những năm 1941-1942, khi quân đội của chúng ta rút lui, bỏ rơi các làng mạc và thành phố Ukraina, Belarus, Moldova, vùng Leningrad, Baltic, CH Karelian-Finnish của chúng ta, đã bỏ rơi bởi vì không còn cách nào khác. Nhân dân này khác có thể đã nói với chính phủ: các ông đã không đáp ứng được sự trông đợi của chúng tôi, hãy đi đi, chúng tôi sẽ lập chính phủ khác, ký kết hòa bình với Đức và bảo đảm yên ổn cho mình. Nhưng nhân dân Nga đã không làm như thế, vì lẽ họ tin cậy vào sự đúng đắn của chính sách chính quyền của mình và đã chấp nhận hy sinh để đảm bảo đánh bại nước Đức. Và lòng tin cậy này của nhân dân Nga vào chính quyền Xô Viết đã đưa đến sức mạnh quyết định, tạo ra chiến thắng lịch sử trước kẻ thù của loài người – chủ nghĩa phát xít.
Спасибо ему, русскому народу, за это доверие!
Xin cảm ơn họ, nhân dân Nga, vì lòng tin cậy này!
За здоровье русского народа!
Vì sức khỏe nhân dân Nga!”

Bịa đặt về Joseph Stalin – là thứ virus hủy hoại cơ chế bảo vệ chúng ta

Cuộc đấu trí đấu lực Stalin - Trotsky rất khốc liệt và diễn ra ngay từ đầu với dáng vẻ đấu tranh nội bộ, bè phái và khuynh hướng. Trotsky đã là nhân vật quyền lực số 2 chỉ sau Lenin từ trước CMT10.
Cho đến tận 1927, Trotsky và các đồng sự thất bại, bị tước các chức vụ đảng và chính quyền, ông ta bị trục xuất khỏi Liên Xô, đi qua Thổ sang Pháp rồi định cư ở Mexico. Tại đó, ông ta vẫn hoạt động cách mạng và sáng lập Quốc tế cộng sản thứ 4. Sống sót qua 1 số vụ ám sát và cuối cùng chết ở tuổi 60 sau khi bị thương nặng trong 1 vụ tấn công mà người ta cho là NKVD thực hiện.
Một số thủ lĩnh đầu sỏ trong chủ nghĩa Trotskism thì chạy thoát về chốn cũ: Anh, Pháp, Mỹ. Những tên khát máu khác bị tống vào trại Gulag. Chủ nghĩa Trotskism bị giải tán nhưng nhiều kẻ đã kịp tìm cho mình vỏ bọc và chỗ ẩn nấp. Stalin đã tha những kẻ qui hàng.
Đến thời chủ nghĩa xét lại Khrushchev, cơ hội trả mối thù cũ hiện ra. Stalin bị bôi nhọ, bị thóa mạ không thương tiếc. Putin cũng đấu với các đầu sỏ và cũng bị bôi nhọ.
Số phận con cháu Stalin gặp nhiều đau khổ và trắc trở. Cho đến tận ngày nay, họ và những người khác vẫn đang đấu tranh vì sự phán xét công bằng lịch sử đối với Stalin. Chúng ta đọc qua bài phỏng vấn Yakov Dzhugashvili với báo Nga.
Yakov Dzhugashvili là cháu trai Stalin, lấy tên như người bác con trai cả của Stalin đã hy sinh trong tù.
Chủ nghĩa tự do đã đạt đến cao trào, dưới vỏ bọc nhân quyền dân chủ, nhưng thực ra vẫn là xét lại, thì hình ảnh Stalin rất xấu xí. Đến ngay cả Putin, khi nói về Stalin cũng đã phải thanh minh: Thời ấy nó thế!
Bài viết này có đầu đề: Ложь об Иосифе Сталине – это вирус, разрушающий наш защитный механизм - Bịa đặt về Joseph Stalin – là thứ virus hủy hoại cơ chế bảo vệ chúng ta.
Bịa đặt chống Stalin được định hướng không phải chống Stalin mà chống người Nga.
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgIC638xnvhfgqGA4KwsOhjSY8ROQarL7tBQFdHdxjfcthyphenhyphenjtXenBI4F_jxwCX3NuOnoiMNNY_zHBrjy7zHCZevDpFFy83sB-BcJNV_vkD0jPqYxdl8yKxaLSSm73wdDv2ig3aTkTQHv82_/s1600/stalin.jpg- Hãy kể về gia đình anh đi.
- Vợ tôi là Nino Lomkatsi. Bộ tộc của cô ấy có gốc gác ở Tusheti (vùng núi cao phía đông Georgia). Chúng tôi sinh cháu năm 2009. Chúng tôi đặt tên cháu theo tên 5 đời bà là Olga-Ekaterina. Vấn đề là bà tôi và bà Nino theo phả hệ dòng họ đều gọi là Olga. Bởi chính Chúa sai khiến đặt tên con gái là Olga. Và cái tên Ekaterina gồm: Mẹ của Joseph Stalin là Ekaterina (Keke) Geladze, vợ đầu của ông (tức là bà cố của tôi) là Ekaterina (Kato) Svanidze và bà nội của cha tôi theo hệ dòng họ là Ekaterina Golysheva-Lukyanovskaya.
- Anh nghỉ ngơi như thế nào và đọc gì?
- Mười năm trở lại đây tôi nhìn chung quan tâm đến văn học lịch sử CCCP thời kỳ Stalin. Thỉnh thoảng tôi đọc tác phẩm cổ điển Georgia. Còn đến rạp hát hay phim thì tôi không có cả dịp lẫn thời gian…
- Tôi biết là người anh của anh đã làm được điều khác biệt trong lĩnh vực phim ảnh…
- Vâng, anh lớn của tôi Vissarion là đạo diễn phim và viết kịch bản. Đề tài tốt nghiệp “Camen” đã giành được giải thưởng Liên hoan phim quốc tế Oberhausen thể loại phim ngắn năm 1998. Năm 2000 anh ấy làm xong bộ phim tài liệu “Jacob – con của Stalin” kể lại cuộc đời và cái chết của bác con cả Stalin.
- Mà bị bắt làm tù binh Đức…
- Thật đáng tiếc là anh tôi, cũng như cả gia đình tôi, cũng như rất nhiều người khác, lại nằm trong quyền thế tuyên truyền Gebbel và Khruschev vì rằng Jakov trong trại tù binh Đức. Ít năm trước tôi đã có dịp mở lòng với nhà sử học Yury Ignatyevich Mukhin, người đã san phẳng những dối trá bịa đặt Gebbel-Khruschev về Jakov. Tư liệu có ở đây: http://jugashvili.com/press/kak_pogi...ugashvili.html ; Nội dung trang này đặt vấn đề, liệu có phải Jakov đã hy sinh hay bị bắt. Chúng ta biết rằng, ngoài truyền đơn in ảnh Jakov, không có bất cứ bằng chứng nào, kể cả các cuốn phim, băng ghi âm giọng nói… người trong ảnh lại có ngoại hình không giống Jakov cho lắm. Và trùm tuyên truyền Đức quốc xã Gebbel thì rất chuyên nghiệp, hồ sơ, biên bản hỏi cung hoàn toàn có thể giả mạo.
- Anh đã lập kế hoạch đấu tranh với những hoang đường đã bén rễ?
- Anh tôi đã xem xét các luận chứng lịch sử, tôi hoàn toàn đồng ý với anh ấy và bât giờ đang ấp ủ ý tưởng tạo một bộ phim mới về Jakov. Tôi nghĩ sẽ là rất nhạy cảm nếu như chúng tôi có thể minh chứng vào lúc này, không chỉ là đơn giản tuyên bố, Jakov đã không bị bắt làm tù binh, mà là đã hy sinh trong trận đánh gần Vitebsk vào tháng 7, và huyền thoại bác ấy trong trại tù binh là kết quả tuyên truyền của phát xít Đức.
- Con cái của anh ấy cũng đã lớn rồi chứ?
- Vâng, anh Vissarion có 2 con, Soso (Joseph) và Vaso (Vasily), chúng đã lớn, Soso 16 tuổi và có nhiều hy vọng, cháu nó chơi piano rất tuyệt và đã thực sự chơi cho dàn nhạc. Vaso thì mê tennis và tỏ ra chín chắn dù mới có 11 tuổi.
- Theo những gì chúng tôi biết, cũng như anh, thì cha anh, ông Evgenia Dzhugashvili, không có quan hệ tốt lắm với một số họ hàng…
- Tôi không còn giữ quan hệ với ai trong số họ nữa.
- Tại sao?
- Họ không thấy nhục bởi dối trá về Stalin, và một số trong họ thậm chí còn phát tán dối trá này. Tôi với họ không đi chung đường, khi mà tôi thấy nhục nhã vì những dối trá này, và tôi làm mọi cách có thể để phơi bày dối trá và cố gắng đem sự thật đến cho mọi người. Trên website PRESS tôi đã trưng bày các tư liệu mà mọi người cần phải biết, để những lời như thế này: Công bằng, Tổ quốc, Nhân dân – không là những âm thanh sáo rỗng. Vấn đề là ở chỗ, bịa đặt về Stalin và CCCP trong thời kỳ đó được tạo ra nhằm mục đích phá hoại uy tín lãnh đạo của đất nước, để đẩy mọi người tránh xa nỗ lực hiểu biết tính tự nhiên của các hiện tượng xảy ra trong thời của ông và vài trò của ông trong các sự kiện đó. Bịa đặt này không nhằm chống Stalin hay những người thân của ông, mà trước hết là chống nhân dân Nga. Bịa đặt đó là một mưu toan nhằm tước đoạt người từ Nga (và cùng với họ là nhân dân cùng với người Nga xây dựng nên xã hội đầu tiên trên thế giới thoát khỏi bọn ăn bám phương tây) sức kháng cự cả với các mối đe dọa bên trong và bên ngoài. Bịa đặt về Stalin là virus tạo ra bởi kẻ hạ đẳng để phá hoại cơ chế bảo vệ của con người, có trách nhiệm nhận thức các mối nguy hiểm. Cuối cùng, bịa đặt đó là mưu toan của giới bề trên hiện tại, biện bạch cho sự cướp bóc là thánh thiện mà nhân dân Xô Viết cần giữ gìn và tăng cường. Những sinh vật này làm suy yếu người ta và đảm bảo rằng chúng và dòng dõi ăn bám của chúng có thể tồn tại vĩnh cửu. Một số thứ nói cho tôi biết thứ “vĩnh cửu” này tồn tại không lâu nữa.. Tôi không thể nói chính xác, vì lý do gì mà hầu như tất cả họ hàng Stalin đều ủng hộ bịa đặt chống Stalin. Dường như mọi người đều có lý do của mình…

Việc đầu tiên "ân xá" Beria

Media phương tây gán cho Lenin “Khủng bố đỏ”, cho Stalin “Đại thanh trừng”, còn Beria là kẻ chịu trách nhiệm trực tiếp trong cuộc đại thanh trừng của Stalin. Chúng ta đã biết một phần chính lý do Stalin phải thanh trừng ở đây; Lavrenti Beria gắn liền với những tai tiếng tồi tệ nhất trong thời kỳ Liên Xô: hung thần, sát nhân, đồ tể… Nhưng thực sự có phải như thế không?
Câu trả lời là không!
Trong 2 năm 1939 - 1940 từ các trại GULAG đã phóng thích 270-290 ngàn người.
http://topwar.ru/uploads/posts/2013-09/1379562770_beriya640.jpgÂn xá năm 1953 được gọi là beriyevsky (ân xá Beria, mặc dù thời đó hay gọi là voroshilovsky), có 1,2 triệu tù nhân được thả, nó được gọi là "thắng lợi của chủ nghĩa nhân đạo hậu Stalin". Đợt ân xá nhân kỷ niệm 10 năm chiến thắng 1955 ít được biết đến hơn – trong đó các tù binh Đức, những kẻ cộng tác với phát xít được phóng thích. Và người ta hoàn toàn không nói gì về cuộc “ân xá” đầu tiên của Beria các năm 1939-1940.
Nói một cách nghiêm chỉnh, thì đó không phải là “ân xá” bởi người ta dùng nó trong ngoặc kép. Còn lý do của sự giấu diếm này thì chỉ có thể phỏng đoán, một trong số đó là người ta không muốn thêm “ánh sáng” vào Beria như một nhà lãnh đạo tích cực. Beria trong tiểu sử lịch sử chính thức là người nắm vai trò chính về cái gọi là "tội ác của chế độ Stalin". Là kẻ chịu trách nhiệm về hầu hết các vụ đàn áp thời kỳ đó mặc dù có một thực tế là Beria lãnh đạo tổ chức chấn áp (NKVD!) chỉ trong 6 năm, từ 1939 đến 1945. Và người ta khoác cho Beria mọi trách nhiệm về tất cả các cuộc đàn áp và vi phạm xảy ra cả trước và sau thời kỳ này – khi nó thuộc trách nhiệm của những người khác: từ Berry và Yezhov đến Abakumov.
Trái lại, chính trong thời kỳ lãnh đạo cơ quan an ninh của Beria, đã có nỗ lực đầu tiên trong suốt chế độ Stalin để thực thi pháp trị trong bộ máy trừng phạt của CCCP.
Niên ký vắn tắt vị trí của Beria trong NKVD: Ngày 22-8-1938 được bổ nhiệm phó thứ nhất Ủy ban nội vụ, 8-9 làm lãnh đạo thứ 1 NKVD, 11-9 làm ủy viên thứ nhất Hội đồng an ninh nhà nước, 29-9 làm người đứng đầu cơ quan an ninh quốc gia của NKVD. Ngày 25-11-1938 Beria được bổ nhiệm lãnh đạo nội vụ CCCP. Ngày 10-4-1939, Yezhov bị bắt vì tội hoạt động gián điệp, khủng bố và lật đổ.
http://topwar.ru/uploads/posts/2013-09/1379562706_beriya450.jpg Nikolay Yezhov, 1937. Photo: RIA Novosti news agency
Một trong những quyết định đầu tiên của Beria trên cương vị lãnh đạo NKVD ngày 1-1-1939 là về “Cục tiếp nhận và xem xét khiếu tố”. Ngày tháng đó có thể coi là khởi đầu cho việc xem xét lại một loạt các vụ án từ thời của người tiền nhiệm NKVD, đồng thời cũng vạch trần các vụ nhân viên an ninh “vi phạm pháp luật”.
Con số “tù phạm” được thả trong 1939–1940, như người ta nói là từ 50 ngàn đến 800 ngàn. Sự thực thì nằm đâu đó giữa 2 con số này.
Nếu như các phương pháp, mà theo đó tính toán con số được ân xá trong 1939–1940 mang nhiều tính lý thuyết, thì sự chỉ đạo về qui tắc trật tự của Beria ở NKVD lại có tài liệu rất rõ ràng chặt chẽ.
Ngay say khi nắm quyền NKVD, Beria bắt tay vào làm sạch cán bộ của Yezhov. Kể từ cuối tháng 11-1938 đến tháng 1-1939, trong bộ máy NKVD bị thải loại 7372 người (chiếm 22,9% tổng số), trong đó có 3830 là lãnh đạo (chiếm 62%).
Đây là ví dụ “thanh lọc” của Beria: Cuối tháng 1 -1939, Beria ký lệnh đưa ra tòa 13 tay chân của Yezhov trong cơ quan quản lý đường sắt Mat-xcơ-va-Kiev vì bắt bớ người trái thẩm quyền, ngày 13-2-1939, Beria ra lệnh đưa lãnh đạo khu vực của NKVD N. Sakharchuk ra tòa vì thực hiện các biện pháp tội lỗi gây hậu quả, ngày 5-2, Beria ra lệnh bắt nhóm nhân viên cơ quan đặc biệt của Hạm đội Baltic vì bắt bớ không có căn cứ. Những vụ việc như thế diễn ra suốt cả năm 1939.
Cùng lúc, NKVD tuyển dụng 14,506 người, trong đó 11,062 từ đảng và đoàn viên Komsomol. Thực sự, 1/3 cơ cấu của NKVD trước kia là nhân viên dân sự, tỷ lệ có học vấn cao đến 35% (thời Yezhov chỉ 10 %) Toàn bộ lực lượng NKVD có tỷ lệ không được giáo dục phổ thông giảm từ 42% xuống 18%. Một nguồn nhân lực khác của NKVD đến từ quân đội. Ngày 27-1-1939, lãnh đạo quân đội Shchadenko công số sắc lệnh No. 010 đơn giản hóa bên quân đội cho các học viên trẻ tốt nghiệp Học viện quân sự RKKA sang làm nhiệm vụ theo điều động của NKVD. Bên cạnh đó, các sĩ quan RKKA cũ, trong giai đoạn 1937-1938 bị Beria xem xét lại: 30 ngàn người bị bị điều tra vì các lý do chính trị, trong đó gần 10 ngàn bị buộc tội. Phục hồi lại hàng ngũ cho 12,5 ngàn sĩ quan sau khi thay đổi lãnh đạo.
Trong những tháng lãnh đạo đầu tiên, Beria đã xem xét lại xong toàn bộ qui tắc thẩm quyền quản lý các vụ án. Kẻ bị kết án bởi “bộ ba” bây giờ có thế khiếu kiện và bị buộc phải xem xét trong vòng 20 ngày. Để giải quyết đơn từ và khiếu kiện, nhóm chuyên trách gồm 15 người được lập thành Ban thư ký thảo luận. Trong quá trình xét xử, nhóm có trách nhiệm xét hỏi tất cả các thành viên tham gia. Số các vụ việc phải đưa đến thẩm phán giải quyết giảm 10 lần – nếu thời Yezhov mỗi ngày phải giải quyết 200-300 vụ, (thực tế là chỉ đọc bản án, không thẩm vấn người làm chứng và điều tra). Thời Beria chỉ còn dưới 10 vụ mỗi ngày.
Điểm đặc biệt của cải cách Beria này, không phải là phó thác cho bên công tố hay tòa án, mà là cho chính NKVD dưới quyền lãnh đạo của mình chịu trách nhiệm.
http://topwar.ru/uploads/posts/2013-09/1379562708_beriya600.jpg Các tù nhân trại cải tạo lao động GULAG, 1940. Photo: TASS photochronicle
Các vụ án chính trị, kể từ 1939 đã giảm 10 lần – thời đại "Đại khủng bố" đã thực sự kết thúc. Năm 1939 số người bị kết án tội phản cách mạng bị trừng phạt ở mức cao nhất 2600 người, năm 1940 là 1600 (so sánh với 1937-1938 khoảng 680 ngàn bị tử hình). Nhưng cũng cần hiểu rằng, con số tử hình thời kỳ trước cao như vậy, là gồm cả bọn phá hoại và gián điệp, nhìn chung ở lãnh thổ phía bắc và tây sát nhập vào Xô Viết (Baltic, Bukovina, Moldova và Tây Ukraine).
Có những tự do hóa cho tù nhân: họ được sử dụng phòng đọc sách và các trò chơi giải trí, các qui định nhận đồ tiếp tế và gặp mặt người thân được lập ra.
Beria cũng là người sáng chế ra cái gọi là "sharashka" – các cơ sở nghiên cứu và sản xuất quốc phòng và các tù nhân khoa học được sống và lao động trong điều kiện nhẹ nhàng hơn. Nhiều tù nhân, là các nhà khoa học nổi tiếng, từng ở sharashka: A. Tupolev, V. Myasishchev, V. Petlyakov, Bartini, N. Vavilov, A. Chizhevsky, P. Oshchepkov, Oparin, Y. B. Rumer, I. S. Filimonenko…
Cũng năm 1939, Beria bắt đầu xem xét vấn đề tù nhân, cuộc “ân xá” đầu tiên bắt đầu. Tiến sĩ sử học V. Zemskov cho biết:
"Tất cả GULAG năm 1939 có 327,400 người (223,600 từ các trại lao động và 103,800 từ các trại giam) được phóng thích, nhưng người ta ít nói về các con số trong trường hợp này, bởi không có chỉ dẫn trong số họ có bao nhiêu phần trăm “kẻ thù nhân dân” được trả tự do trước thời hạn và được phục hồi thân thế. Chúng ta biết là ngày 1-1-1941 ở Kolyma có 34 ngàn người trại lao động được phóng thích, trong số họ 3000 người (8,8%) được phục hồi hoàn toàn.
Ngày 1-1-1939 tổng số tù nhân là 1,672,000 người. Nếu như lấy con số trung bình của Zemskov (8,8%) cho tất cả các trại GULAG, thì cuộc ân xá đầu tiên của Beria đã trả tự do khoảng 140 ngàn người. Các nhà nghiên cứu khác cũng tính toán ra con số gần như thế (từ 130 ngàn đến 150 ngàn), tuy nhiên, cần phải hiểu là phần lớn không được phục hồi thân thế, mà chỉ là giảm thời hạn xuống mức tối thiểu (1-2 năm), hay chuyển sang tình trạng đi đày (giảm mức phạt).
May mắn hơn cho những ai, cho đến 11-1938 chưa bị lĩnh án phạt, và đang bị tạm giam. Nhà sử học bên an ninh Oleg Mozokhin cung cấp số liệu chính xác về điều này. Thành ra đến 1-1-1939, trong số đang bị điều tra có 149,426 người, được thả vì bị đình chỉ xét xử là 83,151, được thả bởi viện kiểm soát và được tuyên trắng án là 25,575 người. Chỉ có 187,840 người bị kết án năm 1939, nửa đầu 1941 có 142,432 người được thả trong quá trình điều tra và xét xử. Đó cũng là “ân xá” ở quá trình điều tra chuẩn xác, tránh oan sai.
Do vậy, tính tổng số “ân xá” Beria đầu tiên, những người được trả tự do hay không phải vào trại GULAG, khoảng 270-290 ngàn người.
Nhưng không phải vì thế mà cho rằng Beria là chủ nghĩa nhân đạo. Không phải Beria mà chính xác hơn là Stalin, cũng không phải là nhân từ hơn mà là NKVD đã linh hoạt hơn. Beria đã tính toán chuẩn xác rằng “ân xá” cho 200-300 ngàn người sẽ đem lại nhiều lợi ích hơn cho công việc, hơn là trong trại lao động, chiến tranh đang đến gần, họ trở lại nhà máy, trở lại phòng thí nghiệm và quân đội.
Beria cũng là người làm cho các trại lao động GULAG thành như một đơn vị kinh tế có giá trị của CCCP. Không cần những cái án tử hình, mà coi những người tù như một đơn vị lao động, như cỗ máy hay như công cụ lao động, và cũng cần phải giữ gìn (vào năm 1939 con số chết trong GULAG giảm mạnh đến 2 lần, và so năm 1941 với 1938 là 3 lần). Giai đoạn 1941-1944 các công trình xây dựng do NKVD điều hành thực hiện có giá trị 14,2 tỷ rub hay chiếm 15% tổng số tất cả các giá trị công trình của nền kinh tế Xô Viết trong thời kỳ này.
Cùng cách tiếp cận “kỹ thuật” Beria như thế đối với cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, những người lính cần cho tổ quốc và từ GULAG đã có hơn 800 ngàn người ra mặt trận. Họ được biết đến như những phạm binh - штрафбаты.
Hiện nay, Beria cần được đánh giá không phải là tên đồ tể, mà như một nhà kỹ trị, nhà quản trị có hiệu quả và cũng là người, đã sửa chữa một thời kỳ đổ máu.

Xem thêm:

Hồ sơ mật Liên Xô
Nhà xuất bản Công an Nhân dân

09 tháng 5 2014

Hồ sơ WWII : Thiên tài hay kẻ bịp bợm

Auchinleck, Richard O’Connor, Benard Montgomery là những viên tướng của quân đội Anh đã đi vào lịch sử trong trận chiến sa mạc những năm 1940 -1943.Trong số những tài liệu viết về giai đoạn này, cuốn “Những viên tướng sa mạc” của tác giả Correlli Barnett đã gây ra nhiều tranh cãi khi đề cập đến vai trò của trung tướng Benard Montgomery trong chiến thắng của trận Alamein thứ hai. Tướng Montgomery đã chỉ huy quân đồng minh, cụ thể là quân Anh, giành chiến thắng trong trận chiến này, song tác giả Barnett lại cho rằng, tướng Montgomery chỉ là một người khoa trương, đã giành lấy công lao của người khác và che giấu sự yếu kém của mình trong việc chỉ huy sai, thiếu niềm tin.
Tướng O’Connor – Người không gặp thời
Năm 1942, khi quân đồng minh, dưới sự chỉ huy của tướng Claude Auchinleck (21/6/1884 – 23/3/1981), đang giành được những lợi thế trên chiến trường thì có sự thay đổi ở cấp chỉ huy. Tướng Montgomery trở thành người lãnh đạo mới của quân đồng minh và đã chỉ huy quân đồng minh giành chiến thắng trong trận Alamein thứ hai (23/10 – 3/11/1942). Tuy nhiên, theo tác giả Barnett, tướng Montgomery cần phải chia sẻ thành công này với những người tiền nhiệm. Trận Alamein cũng bị đánh giá là một trận chiến đầy tốn kém, không cần thiết và thiếu sự phối hợp hiệu quả.
O'Connor Tướng Richard O’Connor.
Trận chiến sa mạc mở màn với đợt tấn công vào Ai Cập của quân đội Italia từ ngày 13 – 18/9/1940. Bất chấp việc có được lợi thế về mặt quân số, quân đội của tướng Rodolfo Graziani (11/8/1882 – 11/1/1955), một trong những chỉ huy của trùm phát xít Benito Mussolini làm nhiệm vụ tại những chiến trường thuộc địa của Italia tại Libi và Êthiôpia trước và trong Thế Chiến II, chỉ tiến được một đoạn ngắn sau khi vượt qua biên giới Libi. Sau đó, cánh quân này đã đóng dọc từ thị trấn Sidi Barrani đến khu vực sa mạc.
Benard Montgomery Tướng Benard Montgomery theo dõi đơn vị xe tăng quân Anh triển khai trên chiến trường Bắc Phi.
Trước tình thế này, tướng Archibald Wavell, Tổng chỉ huy mặt trận trung tâm và phía đông của Anh, sắp đặt và triển khai lại các lực lượng nhằm đối chọi với hai mũi giáp công của quân Italia, một từ phía Libi của Graziani, một từ phía Ethiôpia. Theo đánh giá của tác giả Barnett, tướng Wavell là “một trong những chiến binh vĩ đại nhất trong lịch sử quân đội Anh và là một trong những nhân vật kiệt xuất trong Thế Chiến II”.
Chỉ huy trên chiến trường của Wavell cùng với lực lượng sa mạc miền Đông là thiếu tướng Richard O’Connor, người được đánh giá là “một người đàn ông có ngoại hình nhỏ bé và luôn giữ thái độ nhã nhặn”. Dưới sự chỉ huy của O’Connor, tình thế trên chiến trường đã có những xoay chuyển. Điều này được thể hiện rõ trong khoảng thời gian 10 tuần, từ 9/12/1940 đến 9/2/1941. Lực lượng của O’Connor’, gồm 31.000 quân, 275 xe tăng và 120 khẩu pháo, với sự yểm trợ của Không quân và Hải quân Hoàng gia, đã đột phá được tuyến phòng thủ của quân Italia ở Sidi Barrani.
Tobruk Quân đồng minh chiến đấu tại thị trấn Tobruk.
Trước sức tấn công mãnh liệt của quân Anh, vốn giành được ưu thế nhờ sức mạnh của những chiếc xe tăng Matilda, quân Italia đã bị đẩy ra khỏi Ai Cập vào giữa tháng 12. Dưới sự chỉ huy của tướng Wavell, quân của O’Connor đã bao vây và chiếm được thị trấn duyên hải Bardia. Tiếp đó, quân Anh đã giành chiến thắng trong những trận chiến ở Tobruk và Beda Fomm. Như vậy là chỉ trong hai tháng, đoàn quân do Wavell và O’Connor chỉ huy đã tiến được 800 dặm, tương đương 1.300 km, tiêu diệt được 10 sư đoàn của Italia, bắt giữ được 130.000 tù binh, 1.290 khẩu súng và 400 xe tăng. Chỉ với 30.000 quân song dưới sự chỉ huy của tướng O’Connor, thế trận phòng ngự của quân Italia đã bị đột phá. Theo thống kê, quân của O’Connor mất 476 người, 1.255 người bị thương và 43 người mất tích.
Nhận xét về trận chiến này, tác giả Barnett viết: “Đây là một chiến dịch mang tầm vóc hiện đại. Bắt đầu bằng cách dàn xếp các đơn vị quân, tiếp đó là việc tăng cường sức tấn công sau khi cải thiện được nguồn cung. Trận chiến kết thúc bằng một chiến lược táo bạo. Đó là một trận chiến không khoan nhượng”.
Tướng O’Connor từng khẳng định với cấp trên rằng ông có thể đánh thẳng tới Tripôli và chấm dứt cuộc chiến ở Bắc Phi. Trên thực tế, điều này đã có thể xảy ra. Trong chiến tranh, thời khắc tiến hành tấn công phụ thuộc vào sự mệt mỏi về tinh thần và kiệt quệ về thể xác của đối phương. Đó là thời điểm bên thua thường lui về cố thủ. Tuy nhiên, bên muốn tiến công cũng gặp những vấn đề về hậu cần, như nguồn cung cấp nước, nhiên liệu, đạn dược và quân tiếp ứng cho tiền tuyến. Vào đầu tháng 2/1941, tất cả lực lượng của quân Trục tại Bắc Phi đã bị tiêu diệt và những tàn quân không còn ý chí chiến đấu. Song điều ảnh hưởng tới mong muốn tiến thẳng tới Tripôli của tướng O’Connor chính là quyết định của Thủ tướng Anh Winston Churchill, người đã điều bớt quân sang tăng cường cho chiến trận ở Hy Lạp. Nhờ vậy, quân Trục đã có thời gian để chỉnh đốn lại hàng ngũ.
Rommel – “Ác mộng” của quân Đồng minh
Ngày 24/3/1941, “cơn ác mộng” của quân Đồng minh đã xuất hiện. Tướng Erwin Rommel (1891-1944) khét tiếng đã được cử đến Libi vào đầu năm 1941 cùng với sư đoàn Tia chớp số 5, sau trở thành Sư đoàn Thiết giáp số 21, có nhiệm vụ hỗ trợ quân Italia đang sa sút tinh thần vì những thiệt hại do quân Đồng minh gây ra trong chiến dịch do tướng O’Connor chỉ huy. Được đánh giá một là trong những viên tướng có tài thao lược nhất của phát xít Đức trong Thế chiến thứ II, Rommel, người còn có biệt danh là “Cáo sa mạc”, đã quyết định tiến hành phản công. Với sức mạnh của Sư đoàn thiết giáp 21, quân Đức đã giáng những đòn sấm sét đầy bất ngờ vào quân của tướng O’Connor. Tình thế bất ngờ đảo chiều khi sư đoàn này vượt qua khu vực núi rừng Jebel Akhdar để tiến tới thành phố chiến lược Tobruk vào ngày 10/4. Trước sức tấn công mạnh mẽ của quân Đức và Italia, tướng O’Connor đã đi lạc vào khu vực kiểm soát của quân địch và bị bắt giữ.
Claude Auchinleck Tướng Claude Auchinleck.
Tuy vậy, đà tiến công của đội quân do Rommel chỉ huy cuối cùng cũng bị chặn lại ở Sollum vào ngày 14/4, nhưng những gì xảy ra đã thay đổi thế trận trên chiến trường. Tất cả thành quả mà đội quân của O’Connor giành được trong phút chốc đã tan biến.
Thất bại của quân Anh đã gia tăng sức ép lên tướng Wavell, buộc ông phải chuẩn bị phương án cho một cuộc phản công quân Đức ở thành phố cảng Tobruk, phía đông bờ Địa Trung Hải của Libi. Thất bại dự đoán được của tướng Wavell đã được dùng làm cơ hội để tướng Claude Auchinleck loại ông khỏi chiến trường. Đây cũng được coi là một cách nhằm tháo gỡ những sức ép từ chính trường. Nhận định về quyết định này, tác giả Barnett cho rằng đó là một sai lầm tai hại. Ông viết: “Không có lý do nào được đưa ra nhằm giảm nhẹ trách nhiệm cho Wavell. Quyết định thay thế Wavell được coi như vật hiến tế che đậy cho những sai lầm của cá nhân Thủ tướng Churchill”.
Gazala Xe tăng Đức tại chiến trường Gazala.
Sau đó, tướng Auchinleck lần đầu bổ nhiệm tướng Alan Cunningham (1/5/1887-30/1/1983) tới làm chỉ huy tại tập đoàn quân số 8 vừa mới thành lập. Trước đó, Cunningham từng thể hiện khá tốt vai trò trong chiến dịch Đông Phi, vì vậy tên tuổi của nhà chỉ huy này được biết đến nhiều hơn O’Connor của chiến dịch Hè năm 1941. Tuy nhiên, quy mô cuộc chiến ở sa mạc miền Đông, sự chuyên nghiệp của quân đoàn Phi châu, những thiết bị hiện đại của Đức và khả năng chỉ huy tài tình của tướng Rommel đã làm cho tướng Cunningham không thể hiện được gì nhiều kể từ sau khi được bổ nhiệm. Căng thẳng, mệt mỏi và mất bình tĩnh, tướng Cunningham đã vội vàng dồn lực cho cuộc tấn công “Crusader” trong nỗ lực lần thứ hai quân Anh tìm cách giành lại thành phố cảng Tobruk. Tuy nhiên, những thất bại trong các cuộc giao tranh với quân của Rommel đã làm cho tướng Cunningham mất chức, buộc tướng Auchinleck phải lên nắm quyền chỉ huy. Nhờ vậy, quân Anh đã kịp giành lại thế trận trước sức áp đảo của quân Đức.
Erwin Rommel 2 Tướng Erwin Rommel cùng các chỉ huy của quân Đức và Italia.
Nhờ những thay đổi ở cấp chỉ huy, quân Đồng minh giành lại lợi thế. Bất chấp những thiệt hại nặng nề, tập đoàn quân số 8 đã đẩy lùi quân Trục về thành phố duyên hải El Agheila. Sau đó, tướng Auchinleck bổ nhiệm tướng Neil Ritchie (29/7/1897-11/12/1983) làm chỉ huy tập đoàn quân số 8. Tuy nhiên, đây lại là một quyết định không mang lại thành công của tướng Auchinleck. Trong bối cảnh mặt trận ở thành phố Agedabia, phía đông bán đảo Cyrenaica, dần ổn định, Rommel quyết định tổ chức phản công, chọc thủng tuyến phòng ngự của quân Anh vào ngày 22/1/1942 và buộc tập đoàn quân số 8 phải lùi về Gazala vào ngày 4/2/1942. Cũng tại đây, bốn tháng sau đó, chiến trận trở nên bế tắc khi hai bên tranh thủ thời gian để chỉnh đốn lại quân ngũ và vũ khí chờ cơ hội tấn công.
Một trận chiến quyết liệt khác đã diễn ra khi tướng Rommel tấn công những vị trí của quân Anh ở Gazala trong giai đoạn từ 28/5 – 13/6/1942. Lần này, quân Anh đã phải rút lui. Một lần nữa, Auchinleck đã phải nắm quyền trực tiếp rồi chỉ huy một trận đánh nhằm trì hoãn đà tiến của đối phương ở thị trấn Mersa Matruh vào ngày 28/9 trước khi buộc phải lùi về Alamein-Alam Halfa. Tuy vậy, Tobruk đã thất thủ khi quân Anh giương cờ trắng vào ngày 21/6/1942.
Alamein – Nơi Auchinleck để lại dấu ấn
Tình hình của quân Anh tại chiến trường sa mạc đã gây ra nhiều trở ngại cho phe Đồng minh. Thị trấn El-Alamein chính là phòng tuyến cuối cùng trước khi quân Trục có thể tiến đến Alexandria, Cairo và kênh đào Suez. Lúc đó, Rommel đang âm mưu tiến hành một cuộc tấn công chiến lược mang tính quyết định. Vì vậy, viên chỉ huy này đã tính dùng những binh sĩ có kinh nghiệm chiến đấu trên sa mạc để tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ nhằm vào đoàn quân mà ông cho rằng đang mất tinh thần chiến đấu.
Tuy vậy, với địa hình hiểm trở, cụ thể nhất là vùng hoang mạc Quattara Depression, nơi được đánh giá là cứ điểm chiến lược của thị trấn Alamein và là nơi những phương tiện cơ giới cỡ lớn khó có thể băng qua, quân Anh đã tập trung phòng thủ ở phòng tuyến này. Từ đây, một loạt thị trấn như Miteiriya, Ruweisat và Alam Halfa đã trở thành những cứ điểm “vệ tinh” cho Alamein. Một tuyến phòng ngự kéo từ tây sang đông đã được quân Anh lập ra nhằm bảo vệ trận tuyến cũng như chờ cơ hội tiến hành phản công. Tướng Auchinleck, với sự hỗ trợ của Thiếu tướng Eric “Chinhk” Dorman-Smith, đã nhận thấy điểm đặc biệt ở Alamein, nơi Rommel đã phải dừng bước sau chiến thắng của quân Anh tại trận chiến đầu tiên tại Alamein trong giai đoạn 1-27/7/1942.
Một lần nữa, chiến trận lại trở nên căng thẳng song lần này, tất cả đã nằm trong sự toan tính của quân Anh. Theo đó, Thiếu tướng Dorman-Smoth đã thấy được tầm quan trọng trong việc phải chọc thủng thế trận của quân Italia, buộc tướng Rommel dùng đến những đơn vị tinh nhuệ của quân Đức nhằm hạn chế khoảng trống và tính toán về phương thức phản công. Vào thời điểm này, tướng Rommel không còn nghi ngờ gì về tài chỉ huy của đối phương. Trong bức thư gửi về cho vợ, tác giả Barnett đã viết: “Quân Anh sử dụng chủ yếu là bộ binh để tấn công lần lượt vào các vị trí của quân đội Italia và sau đó, quân Đức quá yếu để có thể tự duy trì thế trận”.
Như vậy, tướng Auchinleck đã chặn đứng được đà tiến của quân đối phương ngay trước cửa ngõ tiến vào Ai Cập. Sau đó, ông đã tính tới việc tăng cường lại sức mạnh để chuẩn bị cho một đợn tấn công. Tướng Dorman-Smith đã viết một báo cáo có tiêu đề “Đánh giá về tình thế ở chiến trường sa mạc phía đông” vào ngày 27/7/1942, trong đó kết luận rằng quân Anh không còn bị đe dọa, song quân đối phương vào thời điểm hiện tại còn quá mạnh để có thể phản công. Vì vậy, kế hoạch dài hạn chỉ ra rằng cần “huấn luyện những sư đoàn mới để tiến hành phản công, có thể là bắt đầu vào cuối tháng 9″.
Tuy nhiên, vào ngày 13/9/1942, trong chuyến thăm cá nhân của Thủ tướng Anh tới chiến trường sa mạc phía đông, tướng Auchinleck đã bị cho thôi chức. Quyết định này được cho là không phải do tình hình trên chiến trường mà là do một cuộc khủng hoảng chính trị liên quan đến Thủ tướng. Năm 1942, quân Anh hứng chịu ba thất bại lớn trên mặt đất. Đó là tại chiến trường Xinhgapo, Miến Điện và Tobruk.
Tại chiến trường Xinhgapo, quân Anh đã thúc thủ sau khi tướng Anh Arthur Percival đầu hàng quân Nhật do tướng Tomoyuki Yamashita chỉ huy. Khoảng 80.000 quân Anh và các nước đồng minh đã trở thành tù binh sau trận chiến, chưa kể 50.000 tù binh khác bị quân Nhật bắt trong trận chiến Malaixia. Với Thủ tướng Winston Churchill, đây là một “thảm họa tồi tệ nhất” và là “cuộc đầu hàng lớn nhất” trong lịch sử nước Anh. Vì vậy, khi 35.000 quân Anh đầu hàng tại Tobruk, đó là lần “bẽ mặt” thứ hai chỉ trong một thời gian ngắn đối với Thủ tướng Churchill. Chưa kể, khi nhận được tin báo từ chiến trường Bắc Phi về, nhà lãnh đạo của Anh đang ở Mỹ để hội đàm về tình hình chiến sự trên thế giới với Tổng thống Roosevelt. Những thất bại nặng nề này đã buộc Thủ tướng Churchill phải đối mặt với cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội. Ngoài ra, năm đó cũng là một năm mất mát của quân Anh khi quân Nhật đã đánh đắm tàu chiến Prince of Wales và chiếc Repulse, chiến dịch tàu ngầm U-boat của Đức đã gây ra nhiều hoang mang cho phía Anh, trong khi những đợt không kích của quân Đức trong chiến dịch “Baedeker Raids” đã gây ra nhiều thương vong cũng như phá nát các di tích cổ tại nhiều thành phố của Anh trong giai đoạn từ tháng 4 tới tháng 6.
Những sức ép từ chính trường trong nước, buộc Thủ tướng Churchill ra quyết định thay tướng Auchinleck bằng tướng Harold Alexander, còn Trung tướng Benard Montgomery đã trở thành chỉ huy của tập đoàn quân số 8. Sau đó, Thủ tướng Churchill đã vượt qua cuộc bỏ phiếu tín nhiệm, với 475 phiếu ủng hộ so với 25 phiếu chống. Đây cũng là thời điểm nhà lãnh đạo của Anh tính đến phương án gỡ lại thể diện. Ông yêu cầu giới tướng lĩnh ở mặt trận Bắc Phi phải đảm bảo rằng thị trấn chiến lược Tobruk sẽ không thất thủ. Song nhìn vào tương quan lực lượng hai bên, Thủ tướng Churchill cũng nhận thấy tài chỉ huy của tướng Rommel và sức mạnh của các loại vũ khí mà quân Đức sử dụng trên chiến trường là những vật cản lớn cho đà tiến công của quân Đồng minh. Trong phiên trả lời chất vấn trước Quốc hội ngày 27/7/1942, Thủ tướng Anh thừa nhận rằng chỉ huy quân đoàn Phi châu của Đức là một “nhân vật khó dò và có tài điều binh khiển tướng”.
Montgomery – “Kẻ bịp bợm” xuất sắc nhất?
Dĩ nhiên, những thất bại cũng giúp người Anh có cơ hội nhìn ra vấn đề. Churchill nhìn vào số lượng và chất lượng của vũ khí mà quân Anh sử dụng. Lý do đơn giản là trước khi những mẫu xe tăng Grant rồi Sherrman của Mỹ được sử dụng, Anh thiếu những mẫu xe tăng có thể đọ được với vũ khí chủ lực của quân Đức, những xe tăng Panzer Mark III và IV.
So với một đội quân sở hữu những chiếc xe tăng có hỏa lực mạnh, các đơn vị quân có khả năng chiến đấu cơ động và ứng biến nhanh với điều kiện thực tế, quân Anh lộ rõ sự yếu thế. Chưa kể, quân Anh thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa lực lượng bộ binh và các đơn vị tăng thiết giáp. Theo tác giả Barnett, tướng Auchinleck đã nhận ra vấn đề của quân Anh và cố gắng giải quyết những chênh lệch giữa vũ khí của quân Anh với đối thủ. Ông viết: “Quân đội phải duy trì tính cơ động. Các đơn vị phải gắn kết và hỗ trợ nhau hơn nữa. Auchinleck cho rằng số quân Anh đang đóng ở sa mạc cần phải tập trung vào tính cơ động trong mỗi trận chiến, trong khi giới chỉ huy cần tăng cường khả năng phán đoán và lanh lẹ trong việc đưa ra những quyết định”.
Benard Montgomery 2 Tướng Benard Montgomery.
Những thay đổi trong cách tiếp cận của tướng Auchinleck đã giúp cho tướng Montgomery thừa hưởng được một đội quân thay đổi theo phong cách hiện đại. Và với sức ép từ chính trường trong nước, giới lãnh đạo Anh yêu cầu tướng Montgomery tiến hành một cuộc tấn công nhưng nhân vật này đã từ chối. Khác với lần Auchinleck để mất Tobruk và bị cho thôi chức, Montogomery đã đấu tranh đến cùng để bảo vệ quyết định không vội xua quân tấn công. Đây được đánh giá là dấu ấn đầu tiên của tướng Montgomery khi nắm quyền chỉ huy tập đoàn quân số 8.
Trong cuốn “Memoirs”, tướng Montgomery từng viết: “Tôi quyết định tập trung sức mạnh để giữ Alam Halfa. Nếu giữ được vị trí này, quân của Rommel sẽ không thể vượt qua được quân đội của tôi để tiến về Cairô. Nếu cố tấn công vào vị trí này, Rommel sẽ tự chuốc lấy thất bại”. Thực tế là vậy nhưng trước khi tướng Montgomery cân nhắc đến cứ điểm chiến lược này, tướng Auchinleck và tướng Dorman-Smith cũng từng nhìn ra tầm quan trọng của Alam Halfa và xây dựng một thế trận phòng thủ khá chắn chắn ở nơi đây.
Alamein. Quân Đức đầu hàng trong trận Alamein thứ 2.
“Sau đó, tôi quyết định rằng cánh quân phía nam cần phải cơ động hơn, do vậy sư đoàn thiết giáp số 7 sẽ giữ tiền tuyến và khi đối thủ tấn công, sư đoàn này có nhiệm vụ quấy phá từ phía đông sang phía nam”. Tưởng như đây là một quyết định được Montgomery tự mình nêu ra, song trong cuốn “Appreciation”, Dorman-Smith từng nói: “Tập đoàn quân số 8 có thể đối diện với kẻ địch ở cánh phía nam. Do vậy, chúng ta cần tổ chức một cánh quân có khả năng cơ động, được huấn luyện kỹ để phục vụ công tác phòng thủ, chờ cơ hội phản công”.
Trận chiến Alam Halfa, bắt đầu từ ngày 31/8 đến 3/9/1942, đã diễn ra theo đúng kế hoạch (của tướng Auchinleck). Tướng Rommel đã chỉ huy quân đội tấn công nhằm giành lợi thế trước quân Anh với số lượng thiết giáp được huy động nhằm đánh vào khu vực giữa hoang mạc Quattara Depression và thị trấn Alam Halfa. Tuy nhiên, nỗ lực này của Rommel đã không thành trước tuyến phòng ngự chắc chắn của quân Anh, nhờ những đơn vị quân được bố trí hợp lý và các sư đoàn thiết giáp cơ động. Sau trận chiến Alam Halfa, Thủ tướng Churchill muốn quân Anh tận dụng thời điểm để tiến công phe Trục trước khi quân Mỹ can thiệp. Tuy nhiên, tướng Montgomery vẫn giữ nguyên quan điểm của ông khi muốn mọi thứ phải đảm bảo trước khi tổ chức tấn công. Do vậy, cuộc tấn công đã bị lùi tới cuối tháng 10/1942, thời điểm Tập đoàn quân số 8 đã có được ưu thế về quân số và vũ khí.
Trước khi bước vào trận chiến El-Alamein thứ hai, quân của tướng Montgomery có 220.000 người so với 100.000 quân của tướng Rommel. Quân Anh cũng có 1.100 xe tăng, trong đó có 270 chiếc xe tăng Sherman mới và 219 chiếc xe tăng Grant. Ngoài ra, Tập đoàn quân số 8 còn có 1.000 khẩu súng cỡ vừa, 1.400 khẩu súng chống tăng. Anh cũng nhanh chóng thành lập đơn vị Không quân Sa mạc để giúp quân đội giành ưu thế trên chiến trường. Trận chiến đã kéo dài trong 13 ngày với phần thắng nghiêng về quân Anh. Tuy vậy, những sai sót từ giới chỉ huy của quân Anh được coi là một phần nguyên nhân trong việc để tướng Rommel trốn thoát khi trận chiến kết thúc.
Trong cuốn sách tái bản “Những vị tướng sa mạc”, tác giả Barnett một lần nữa lặp lại và nhấn mạnh vào những gì mà ông từng kết luận trước đó. Ông buộc tội Montgomery đã bóp méo những kế hoạch của các viên tướng tiền nhiệm, giành hết công cho mình trong việc đưa ra kế hoạch ở trận Alam Halfa, chỉ huy không hợp lý trận Alamein và không tuân theo những gì đã nêu ra trong kế hoạch của mình, gây ra thất bại ban đầu ở Alamein bằng việc điều bộ binh và thiết giáp đi qua những khu vực nhỏ hẹp chứa đầy mìn, thất bại trong việc giăng bẫy bắt Rommel ở thị trấn El-Alamein sau khi quân Anh giành lợi thế, chậm chạp và thận trọng không cần thiết khi chỉ huy quân tiến tới Tripôli.
Tác giả Barnett cho rằng, trong trận chiến sa mạc, quân Anh đã được chỉ huy bởi nhiều viên tướng, từ Wavell tới O’Connor, Auchinleck và Dorman-Smith. Tuy nhiên, việc chỉ có tướng Montgomery được nhắc đến như người đã giúp quân Anh giành chiến thắng trong cuộc chiến sa mạc, vốn “che lấp” công lao của những người khác, là một sự bóp méo trắng trợn sự thật và chính Montgomery phải chịu trách nhiệm chính cho sự bóp méo này.