Hiển thị các bài đăng có nhãn nhânvật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn nhânvật. Hiển thị tất cả bài đăng

09 tháng 5 2014

Hồ sơ WWII : Thiên tài hay kẻ bịp bợm

Auchinleck, Richard O’Connor, Benard Montgomery là những viên tướng của quân đội Anh đã đi vào lịch sử trong trận chiến sa mạc những năm 1940 -1943.Trong số những tài liệu viết về giai đoạn này, cuốn “Những viên tướng sa mạc” của tác giả Correlli Barnett đã gây ra nhiều tranh cãi khi đề cập đến vai trò của trung tướng Benard Montgomery trong chiến thắng của trận Alamein thứ hai. Tướng Montgomery đã chỉ huy quân đồng minh, cụ thể là quân Anh, giành chiến thắng trong trận chiến này, song tác giả Barnett lại cho rằng, tướng Montgomery chỉ là một người khoa trương, đã giành lấy công lao của người khác và che giấu sự yếu kém của mình trong việc chỉ huy sai, thiếu niềm tin.
Tướng O’Connor – Người không gặp thời
Năm 1942, khi quân đồng minh, dưới sự chỉ huy của tướng Claude Auchinleck (21/6/1884 – 23/3/1981), đang giành được những lợi thế trên chiến trường thì có sự thay đổi ở cấp chỉ huy. Tướng Montgomery trở thành người lãnh đạo mới của quân đồng minh và đã chỉ huy quân đồng minh giành chiến thắng trong trận Alamein thứ hai (23/10 – 3/11/1942). Tuy nhiên, theo tác giả Barnett, tướng Montgomery cần phải chia sẻ thành công này với những người tiền nhiệm. Trận Alamein cũng bị đánh giá là một trận chiến đầy tốn kém, không cần thiết và thiếu sự phối hợp hiệu quả.
O'Connor Tướng Richard O’Connor.
Trận chiến sa mạc mở màn với đợt tấn công vào Ai Cập của quân đội Italia từ ngày 13 – 18/9/1940. Bất chấp việc có được lợi thế về mặt quân số, quân đội của tướng Rodolfo Graziani (11/8/1882 – 11/1/1955), một trong những chỉ huy của trùm phát xít Benito Mussolini làm nhiệm vụ tại những chiến trường thuộc địa của Italia tại Libi và Êthiôpia trước và trong Thế Chiến II, chỉ tiến được một đoạn ngắn sau khi vượt qua biên giới Libi. Sau đó, cánh quân này đã đóng dọc từ thị trấn Sidi Barrani đến khu vực sa mạc.
Benard Montgomery Tướng Benard Montgomery theo dõi đơn vị xe tăng quân Anh triển khai trên chiến trường Bắc Phi.
Trước tình thế này, tướng Archibald Wavell, Tổng chỉ huy mặt trận trung tâm và phía đông của Anh, sắp đặt và triển khai lại các lực lượng nhằm đối chọi với hai mũi giáp công của quân Italia, một từ phía Libi của Graziani, một từ phía Ethiôpia. Theo đánh giá của tác giả Barnett, tướng Wavell là “một trong những chiến binh vĩ đại nhất trong lịch sử quân đội Anh và là một trong những nhân vật kiệt xuất trong Thế Chiến II”.
Chỉ huy trên chiến trường của Wavell cùng với lực lượng sa mạc miền Đông là thiếu tướng Richard O’Connor, người được đánh giá là “một người đàn ông có ngoại hình nhỏ bé và luôn giữ thái độ nhã nhặn”. Dưới sự chỉ huy của O’Connor, tình thế trên chiến trường đã có những xoay chuyển. Điều này được thể hiện rõ trong khoảng thời gian 10 tuần, từ 9/12/1940 đến 9/2/1941. Lực lượng của O’Connor’, gồm 31.000 quân, 275 xe tăng và 120 khẩu pháo, với sự yểm trợ của Không quân và Hải quân Hoàng gia, đã đột phá được tuyến phòng thủ của quân Italia ở Sidi Barrani.
Tobruk Quân đồng minh chiến đấu tại thị trấn Tobruk.
Trước sức tấn công mãnh liệt của quân Anh, vốn giành được ưu thế nhờ sức mạnh của những chiếc xe tăng Matilda, quân Italia đã bị đẩy ra khỏi Ai Cập vào giữa tháng 12. Dưới sự chỉ huy của tướng Wavell, quân của O’Connor đã bao vây và chiếm được thị trấn duyên hải Bardia. Tiếp đó, quân Anh đã giành chiến thắng trong những trận chiến ở Tobruk và Beda Fomm. Như vậy là chỉ trong hai tháng, đoàn quân do Wavell và O’Connor chỉ huy đã tiến được 800 dặm, tương đương 1.300 km, tiêu diệt được 10 sư đoàn của Italia, bắt giữ được 130.000 tù binh, 1.290 khẩu súng và 400 xe tăng. Chỉ với 30.000 quân song dưới sự chỉ huy của tướng O’Connor, thế trận phòng ngự của quân Italia đã bị đột phá. Theo thống kê, quân của O’Connor mất 476 người, 1.255 người bị thương và 43 người mất tích.
Nhận xét về trận chiến này, tác giả Barnett viết: “Đây là một chiến dịch mang tầm vóc hiện đại. Bắt đầu bằng cách dàn xếp các đơn vị quân, tiếp đó là việc tăng cường sức tấn công sau khi cải thiện được nguồn cung. Trận chiến kết thúc bằng một chiến lược táo bạo. Đó là một trận chiến không khoan nhượng”.
Tướng O’Connor từng khẳng định với cấp trên rằng ông có thể đánh thẳng tới Tripôli và chấm dứt cuộc chiến ở Bắc Phi. Trên thực tế, điều này đã có thể xảy ra. Trong chiến tranh, thời khắc tiến hành tấn công phụ thuộc vào sự mệt mỏi về tinh thần và kiệt quệ về thể xác của đối phương. Đó là thời điểm bên thua thường lui về cố thủ. Tuy nhiên, bên muốn tiến công cũng gặp những vấn đề về hậu cần, như nguồn cung cấp nước, nhiên liệu, đạn dược và quân tiếp ứng cho tiền tuyến. Vào đầu tháng 2/1941, tất cả lực lượng của quân Trục tại Bắc Phi đã bị tiêu diệt và những tàn quân không còn ý chí chiến đấu. Song điều ảnh hưởng tới mong muốn tiến thẳng tới Tripôli của tướng O’Connor chính là quyết định của Thủ tướng Anh Winston Churchill, người đã điều bớt quân sang tăng cường cho chiến trận ở Hy Lạp. Nhờ vậy, quân Trục đã có thời gian để chỉnh đốn lại hàng ngũ.
Rommel – “Ác mộng” của quân Đồng minh
Ngày 24/3/1941, “cơn ác mộng” của quân Đồng minh đã xuất hiện. Tướng Erwin Rommel (1891-1944) khét tiếng đã được cử đến Libi vào đầu năm 1941 cùng với sư đoàn Tia chớp số 5, sau trở thành Sư đoàn Thiết giáp số 21, có nhiệm vụ hỗ trợ quân Italia đang sa sút tinh thần vì những thiệt hại do quân Đồng minh gây ra trong chiến dịch do tướng O’Connor chỉ huy. Được đánh giá một là trong những viên tướng có tài thao lược nhất của phát xít Đức trong Thế chiến thứ II, Rommel, người còn có biệt danh là “Cáo sa mạc”, đã quyết định tiến hành phản công. Với sức mạnh của Sư đoàn thiết giáp 21, quân Đức đã giáng những đòn sấm sét đầy bất ngờ vào quân của tướng O’Connor. Tình thế bất ngờ đảo chiều khi sư đoàn này vượt qua khu vực núi rừng Jebel Akhdar để tiến tới thành phố chiến lược Tobruk vào ngày 10/4. Trước sức tấn công mạnh mẽ của quân Đức và Italia, tướng O’Connor đã đi lạc vào khu vực kiểm soát của quân địch và bị bắt giữ.
Claude Auchinleck Tướng Claude Auchinleck.
Tuy vậy, đà tiến công của đội quân do Rommel chỉ huy cuối cùng cũng bị chặn lại ở Sollum vào ngày 14/4, nhưng những gì xảy ra đã thay đổi thế trận trên chiến trường. Tất cả thành quả mà đội quân của O’Connor giành được trong phút chốc đã tan biến.
Thất bại của quân Anh đã gia tăng sức ép lên tướng Wavell, buộc ông phải chuẩn bị phương án cho một cuộc phản công quân Đức ở thành phố cảng Tobruk, phía đông bờ Địa Trung Hải của Libi. Thất bại dự đoán được của tướng Wavell đã được dùng làm cơ hội để tướng Claude Auchinleck loại ông khỏi chiến trường. Đây cũng được coi là một cách nhằm tháo gỡ những sức ép từ chính trường. Nhận định về quyết định này, tác giả Barnett cho rằng đó là một sai lầm tai hại. Ông viết: “Không có lý do nào được đưa ra nhằm giảm nhẹ trách nhiệm cho Wavell. Quyết định thay thế Wavell được coi như vật hiến tế che đậy cho những sai lầm của cá nhân Thủ tướng Churchill”.
Gazala Xe tăng Đức tại chiến trường Gazala.
Sau đó, tướng Auchinleck lần đầu bổ nhiệm tướng Alan Cunningham (1/5/1887-30/1/1983) tới làm chỉ huy tại tập đoàn quân số 8 vừa mới thành lập. Trước đó, Cunningham từng thể hiện khá tốt vai trò trong chiến dịch Đông Phi, vì vậy tên tuổi của nhà chỉ huy này được biết đến nhiều hơn O’Connor của chiến dịch Hè năm 1941. Tuy nhiên, quy mô cuộc chiến ở sa mạc miền Đông, sự chuyên nghiệp của quân đoàn Phi châu, những thiết bị hiện đại của Đức và khả năng chỉ huy tài tình của tướng Rommel đã làm cho tướng Cunningham không thể hiện được gì nhiều kể từ sau khi được bổ nhiệm. Căng thẳng, mệt mỏi và mất bình tĩnh, tướng Cunningham đã vội vàng dồn lực cho cuộc tấn công “Crusader” trong nỗ lực lần thứ hai quân Anh tìm cách giành lại thành phố cảng Tobruk. Tuy nhiên, những thất bại trong các cuộc giao tranh với quân của Rommel đã làm cho tướng Cunningham mất chức, buộc tướng Auchinleck phải lên nắm quyền chỉ huy. Nhờ vậy, quân Anh đã kịp giành lại thế trận trước sức áp đảo của quân Đức.
Erwin Rommel 2 Tướng Erwin Rommel cùng các chỉ huy của quân Đức và Italia.
Nhờ những thay đổi ở cấp chỉ huy, quân Đồng minh giành lại lợi thế. Bất chấp những thiệt hại nặng nề, tập đoàn quân số 8 đã đẩy lùi quân Trục về thành phố duyên hải El Agheila. Sau đó, tướng Auchinleck bổ nhiệm tướng Neil Ritchie (29/7/1897-11/12/1983) làm chỉ huy tập đoàn quân số 8. Tuy nhiên, đây lại là một quyết định không mang lại thành công của tướng Auchinleck. Trong bối cảnh mặt trận ở thành phố Agedabia, phía đông bán đảo Cyrenaica, dần ổn định, Rommel quyết định tổ chức phản công, chọc thủng tuyến phòng ngự của quân Anh vào ngày 22/1/1942 và buộc tập đoàn quân số 8 phải lùi về Gazala vào ngày 4/2/1942. Cũng tại đây, bốn tháng sau đó, chiến trận trở nên bế tắc khi hai bên tranh thủ thời gian để chỉnh đốn lại quân ngũ và vũ khí chờ cơ hội tấn công.
Một trận chiến quyết liệt khác đã diễn ra khi tướng Rommel tấn công những vị trí của quân Anh ở Gazala trong giai đoạn từ 28/5 – 13/6/1942. Lần này, quân Anh đã phải rút lui. Một lần nữa, Auchinleck đã phải nắm quyền trực tiếp rồi chỉ huy một trận đánh nhằm trì hoãn đà tiến của đối phương ở thị trấn Mersa Matruh vào ngày 28/9 trước khi buộc phải lùi về Alamein-Alam Halfa. Tuy vậy, Tobruk đã thất thủ khi quân Anh giương cờ trắng vào ngày 21/6/1942.
Alamein – Nơi Auchinleck để lại dấu ấn
Tình hình của quân Anh tại chiến trường sa mạc đã gây ra nhiều trở ngại cho phe Đồng minh. Thị trấn El-Alamein chính là phòng tuyến cuối cùng trước khi quân Trục có thể tiến đến Alexandria, Cairo và kênh đào Suez. Lúc đó, Rommel đang âm mưu tiến hành một cuộc tấn công chiến lược mang tính quyết định. Vì vậy, viên chỉ huy này đã tính dùng những binh sĩ có kinh nghiệm chiến đấu trên sa mạc để tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ nhằm vào đoàn quân mà ông cho rằng đang mất tinh thần chiến đấu.
Tuy vậy, với địa hình hiểm trở, cụ thể nhất là vùng hoang mạc Quattara Depression, nơi được đánh giá là cứ điểm chiến lược của thị trấn Alamein và là nơi những phương tiện cơ giới cỡ lớn khó có thể băng qua, quân Anh đã tập trung phòng thủ ở phòng tuyến này. Từ đây, một loạt thị trấn như Miteiriya, Ruweisat và Alam Halfa đã trở thành những cứ điểm “vệ tinh” cho Alamein. Một tuyến phòng ngự kéo từ tây sang đông đã được quân Anh lập ra nhằm bảo vệ trận tuyến cũng như chờ cơ hội tiến hành phản công. Tướng Auchinleck, với sự hỗ trợ của Thiếu tướng Eric “Chinhk” Dorman-Smith, đã nhận thấy điểm đặc biệt ở Alamein, nơi Rommel đã phải dừng bước sau chiến thắng của quân Anh tại trận chiến đầu tiên tại Alamein trong giai đoạn 1-27/7/1942.
Một lần nữa, chiến trận lại trở nên căng thẳng song lần này, tất cả đã nằm trong sự toan tính của quân Anh. Theo đó, Thiếu tướng Dorman-Smoth đã thấy được tầm quan trọng trong việc phải chọc thủng thế trận của quân Italia, buộc tướng Rommel dùng đến những đơn vị tinh nhuệ của quân Đức nhằm hạn chế khoảng trống và tính toán về phương thức phản công. Vào thời điểm này, tướng Rommel không còn nghi ngờ gì về tài chỉ huy của đối phương. Trong bức thư gửi về cho vợ, tác giả Barnett đã viết: “Quân Anh sử dụng chủ yếu là bộ binh để tấn công lần lượt vào các vị trí của quân đội Italia và sau đó, quân Đức quá yếu để có thể tự duy trì thế trận”.
Như vậy, tướng Auchinleck đã chặn đứng được đà tiến của quân đối phương ngay trước cửa ngõ tiến vào Ai Cập. Sau đó, ông đã tính tới việc tăng cường lại sức mạnh để chuẩn bị cho một đợn tấn công. Tướng Dorman-Smith đã viết một báo cáo có tiêu đề “Đánh giá về tình thế ở chiến trường sa mạc phía đông” vào ngày 27/7/1942, trong đó kết luận rằng quân Anh không còn bị đe dọa, song quân đối phương vào thời điểm hiện tại còn quá mạnh để có thể phản công. Vì vậy, kế hoạch dài hạn chỉ ra rằng cần “huấn luyện những sư đoàn mới để tiến hành phản công, có thể là bắt đầu vào cuối tháng 9″.
Tuy nhiên, vào ngày 13/9/1942, trong chuyến thăm cá nhân của Thủ tướng Anh tới chiến trường sa mạc phía đông, tướng Auchinleck đã bị cho thôi chức. Quyết định này được cho là không phải do tình hình trên chiến trường mà là do một cuộc khủng hoảng chính trị liên quan đến Thủ tướng. Năm 1942, quân Anh hứng chịu ba thất bại lớn trên mặt đất. Đó là tại chiến trường Xinhgapo, Miến Điện và Tobruk.
Tại chiến trường Xinhgapo, quân Anh đã thúc thủ sau khi tướng Anh Arthur Percival đầu hàng quân Nhật do tướng Tomoyuki Yamashita chỉ huy. Khoảng 80.000 quân Anh và các nước đồng minh đã trở thành tù binh sau trận chiến, chưa kể 50.000 tù binh khác bị quân Nhật bắt trong trận chiến Malaixia. Với Thủ tướng Winston Churchill, đây là một “thảm họa tồi tệ nhất” và là “cuộc đầu hàng lớn nhất” trong lịch sử nước Anh. Vì vậy, khi 35.000 quân Anh đầu hàng tại Tobruk, đó là lần “bẽ mặt” thứ hai chỉ trong một thời gian ngắn đối với Thủ tướng Churchill. Chưa kể, khi nhận được tin báo từ chiến trường Bắc Phi về, nhà lãnh đạo của Anh đang ở Mỹ để hội đàm về tình hình chiến sự trên thế giới với Tổng thống Roosevelt. Những thất bại nặng nề này đã buộc Thủ tướng Churchill phải đối mặt với cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội. Ngoài ra, năm đó cũng là một năm mất mát của quân Anh khi quân Nhật đã đánh đắm tàu chiến Prince of Wales và chiếc Repulse, chiến dịch tàu ngầm U-boat của Đức đã gây ra nhiều hoang mang cho phía Anh, trong khi những đợt không kích của quân Đức trong chiến dịch “Baedeker Raids” đã gây ra nhiều thương vong cũng như phá nát các di tích cổ tại nhiều thành phố của Anh trong giai đoạn từ tháng 4 tới tháng 6.
Những sức ép từ chính trường trong nước, buộc Thủ tướng Churchill ra quyết định thay tướng Auchinleck bằng tướng Harold Alexander, còn Trung tướng Benard Montgomery đã trở thành chỉ huy của tập đoàn quân số 8. Sau đó, Thủ tướng Churchill đã vượt qua cuộc bỏ phiếu tín nhiệm, với 475 phiếu ủng hộ so với 25 phiếu chống. Đây cũng là thời điểm nhà lãnh đạo của Anh tính đến phương án gỡ lại thể diện. Ông yêu cầu giới tướng lĩnh ở mặt trận Bắc Phi phải đảm bảo rằng thị trấn chiến lược Tobruk sẽ không thất thủ. Song nhìn vào tương quan lực lượng hai bên, Thủ tướng Churchill cũng nhận thấy tài chỉ huy của tướng Rommel và sức mạnh của các loại vũ khí mà quân Đức sử dụng trên chiến trường là những vật cản lớn cho đà tiến công của quân Đồng minh. Trong phiên trả lời chất vấn trước Quốc hội ngày 27/7/1942, Thủ tướng Anh thừa nhận rằng chỉ huy quân đoàn Phi châu của Đức là một “nhân vật khó dò và có tài điều binh khiển tướng”.
Montgomery – “Kẻ bịp bợm” xuất sắc nhất?
Dĩ nhiên, những thất bại cũng giúp người Anh có cơ hội nhìn ra vấn đề. Churchill nhìn vào số lượng và chất lượng của vũ khí mà quân Anh sử dụng. Lý do đơn giản là trước khi những mẫu xe tăng Grant rồi Sherrman của Mỹ được sử dụng, Anh thiếu những mẫu xe tăng có thể đọ được với vũ khí chủ lực của quân Đức, những xe tăng Panzer Mark III và IV.
So với một đội quân sở hữu những chiếc xe tăng có hỏa lực mạnh, các đơn vị quân có khả năng chiến đấu cơ động và ứng biến nhanh với điều kiện thực tế, quân Anh lộ rõ sự yếu thế. Chưa kể, quân Anh thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa lực lượng bộ binh và các đơn vị tăng thiết giáp. Theo tác giả Barnett, tướng Auchinleck đã nhận ra vấn đề của quân Anh và cố gắng giải quyết những chênh lệch giữa vũ khí của quân Anh với đối thủ. Ông viết: “Quân đội phải duy trì tính cơ động. Các đơn vị phải gắn kết và hỗ trợ nhau hơn nữa. Auchinleck cho rằng số quân Anh đang đóng ở sa mạc cần phải tập trung vào tính cơ động trong mỗi trận chiến, trong khi giới chỉ huy cần tăng cường khả năng phán đoán và lanh lẹ trong việc đưa ra những quyết định”.
Benard Montgomery 2 Tướng Benard Montgomery.
Những thay đổi trong cách tiếp cận của tướng Auchinleck đã giúp cho tướng Montgomery thừa hưởng được một đội quân thay đổi theo phong cách hiện đại. Và với sức ép từ chính trường trong nước, giới lãnh đạo Anh yêu cầu tướng Montgomery tiến hành một cuộc tấn công nhưng nhân vật này đã từ chối. Khác với lần Auchinleck để mất Tobruk và bị cho thôi chức, Montogomery đã đấu tranh đến cùng để bảo vệ quyết định không vội xua quân tấn công. Đây được đánh giá là dấu ấn đầu tiên của tướng Montgomery khi nắm quyền chỉ huy tập đoàn quân số 8.
Trong cuốn “Memoirs”, tướng Montgomery từng viết: “Tôi quyết định tập trung sức mạnh để giữ Alam Halfa. Nếu giữ được vị trí này, quân của Rommel sẽ không thể vượt qua được quân đội của tôi để tiến về Cairô. Nếu cố tấn công vào vị trí này, Rommel sẽ tự chuốc lấy thất bại”. Thực tế là vậy nhưng trước khi tướng Montgomery cân nhắc đến cứ điểm chiến lược này, tướng Auchinleck và tướng Dorman-Smith cũng từng nhìn ra tầm quan trọng của Alam Halfa và xây dựng một thế trận phòng thủ khá chắn chắn ở nơi đây.
Alamein. Quân Đức đầu hàng trong trận Alamein thứ 2.
“Sau đó, tôi quyết định rằng cánh quân phía nam cần phải cơ động hơn, do vậy sư đoàn thiết giáp số 7 sẽ giữ tiền tuyến và khi đối thủ tấn công, sư đoàn này có nhiệm vụ quấy phá từ phía đông sang phía nam”. Tưởng như đây là một quyết định được Montgomery tự mình nêu ra, song trong cuốn “Appreciation”, Dorman-Smith từng nói: “Tập đoàn quân số 8 có thể đối diện với kẻ địch ở cánh phía nam. Do vậy, chúng ta cần tổ chức một cánh quân có khả năng cơ động, được huấn luyện kỹ để phục vụ công tác phòng thủ, chờ cơ hội phản công”.
Trận chiến Alam Halfa, bắt đầu từ ngày 31/8 đến 3/9/1942, đã diễn ra theo đúng kế hoạch (của tướng Auchinleck). Tướng Rommel đã chỉ huy quân đội tấn công nhằm giành lợi thế trước quân Anh với số lượng thiết giáp được huy động nhằm đánh vào khu vực giữa hoang mạc Quattara Depression và thị trấn Alam Halfa. Tuy nhiên, nỗ lực này của Rommel đã không thành trước tuyến phòng ngự chắc chắn của quân Anh, nhờ những đơn vị quân được bố trí hợp lý và các sư đoàn thiết giáp cơ động. Sau trận chiến Alam Halfa, Thủ tướng Churchill muốn quân Anh tận dụng thời điểm để tiến công phe Trục trước khi quân Mỹ can thiệp. Tuy nhiên, tướng Montgomery vẫn giữ nguyên quan điểm của ông khi muốn mọi thứ phải đảm bảo trước khi tổ chức tấn công. Do vậy, cuộc tấn công đã bị lùi tới cuối tháng 10/1942, thời điểm Tập đoàn quân số 8 đã có được ưu thế về quân số và vũ khí.
Trước khi bước vào trận chiến El-Alamein thứ hai, quân của tướng Montgomery có 220.000 người so với 100.000 quân của tướng Rommel. Quân Anh cũng có 1.100 xe tăng, trong đó có 270 chiếc xe tăng Sherman mới và 219 chiếc xe tăng Grant. Ngoài ra, Tập đoàn quân số 8 còn có 1.000 khẩu súng cỡ vừa, 1.400 khẩu súng chống tăng. Anh cũng nhanh chóng thành lập đơn vị Không quân Sa mạc để giúp quân đội giành ưu thế trên chiến trường. Trận chiến đã kéo dài trong 13 ngày với phần thắng nghiêng về quân Anh. Tuy vậy, những sai sót từ giới chỉ huy của quân Anh được coi là một phần nguyên nhân trong việc để tướng Rommel trốn thoát khi trận chiến kết thúc.
Trong cuốn sách tái bản “Những vị tướng sa mạc”, tác giả Barnett một lần nữa lặp lại và nhấn mạnh vào những gì mà ông từng kết luận trước đó. Ông buộc tội Montgomery đã bóp méo những kế hoạch của các viên tướng tiền nhiệm, giành hết công cho mình trong việc đưa ra kế hoạch ở trận Alam Halfa, chỉ huy không hợp lý trận Alamein và không tuân theo những gì đã nêu ra trong kế hoạch của mình, gây ra thất bại ban đầu ở Alamein bằng việc điều bộ binh và thiết giáp đi qua những khu vực nhỏ hẹp chứa đầy mìn, thất bại trong việc giăng bẫy bắt Rommel ở thị trấn El-Alamein sau khi quân Anh giành lợi thế, chậm chạp và thận trọng không cần thiết khi chỉ huy quân tiến tới Tripôli.
Tác giả Barnett cho rằng, trong trận chiến sa mạc, quân Anh đã được chỉ huy bởi nhiều viên tướng, từ Wavell tới O’Connor, Auchinleck và Dorman-Smith. Tuy nhiên, việc chỉ có tướng Montgomery được nhắc đến như người đã giúp quân Anh giành chiến thắng trong cuộc chiến sa mạc, vốn “che lấp” công lao của những người khác, là một sự bóp méo trắng trợn sự thật và chính Montgomery phải chịu trách nhiệm chính cho sự bóp méo này.


15 tháng 10 2013

Tại sao phải lập ra Uỷ ban Quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch

Nhân có bác Giao lên bài về vấn đề nêu trên tiêu đề, xin trích một đoạn:

11/10/2013


Không vội tin lời kể không có bằng chứng của thư kí (viết thêm từ phát hiện của bác Trần Hùng)


Vừa có một phát hiện thú vị của bác Trần Hùng liên quan đến việc Đại tướng được giao nhiệm vụ Chủ tịch Ủy ban Dân số và Sinh đẻ có kế hoạch hồi giữa thập niên 1980. Phát hiện tuy nhẹ nhàng, nhưng rất trúng.

Cụ thể là, đã có sự khác nhau một trời một vực giữa: một bên là lời kể chay của người thư kí của Đại tướng - ông Đại tá Nguyễn Văn Huyên, và một bên là tư liệu hai năm rõ mười mà bác Trần Hùng trình ra.

Sự kiện chưa cách xa chúng ta mấy, mới chỉ từ năm 1984 thôi, chứ đâu phải là 1944 hay 1934 (1924, vân vân).


Thậm chí, xin tiết lộ với bác Trần Hùng rằng, vào năm 1986, một nhóm học sinh chuyên (trong đó có tôi) đã được cử đến chào và tặng hoa cho Đại tướng cùng phu nhân Đặng Bích Hà. Tôi lúc ấy gọi Đại tướng là "Bác" nhưng lại gọi phu nhân là "Cô" (thực ra, nếu đúng, phải gọi là "Ông" và "Bà"). Bác lúc ấy về địa phương, với tư cách, đúng thực là Trưởng Ban Sinh đẻ có kế hoach thật. Ở địa phương lúc đó họ trình trọng giới thiệu đúng như vậy. Bác được đón tiếp ở nhà khách của Tỉnh ủy, vào buổi tối, và sáng hôm sau thì đi tuyến tỉnh tuyến huyện để thị sát tình hình. Lúc khác, khi thực sự cần thiết và thuận tiện, tôi sẽ trình ảnh chụp và các loại tư liệu của buổi tối hôm ấy. Ở thời điểm đó, công việc Sinh đẻ có kế hoạch được phát động rất rầm rộ như là một quyết sách để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các nơi hưởng ứng lắm, đến mức, lúc ấy, tôi còn học theo mấy bác đàn anh đàn chú đàn bác của mình, viết được một cái truyện ngăn ngắn về đề tài Sinh đẻ có kế hoạch ! Bây giờ, nghĩ lại, phát ngượng, bởi lúc đó, "chưa ráo máu đầu", làm gì biết đến chuyện Sinh đẻ, mà cũng bàn chuyện Kế hoạch !

Bài học giá trị, để chúng ta chớ vội tin lời kể không bằng chứng của thư kí. Mà lời kể không bằng chứng của chính đương sự, để có thể sử dụng, phải mất rất nhiều công sức xác nhận. 

Bản thân chúng ta, nhiều khi còn phải dựa vào chính tư liệu để xác nhận trí nhớ của mình. Tư liệu là cái khách quan, có khi đến độ tàn nhẫn.

Đó là một trong nhứng lí do, để tôi từng nói đại ý rằng, cuốn Bên thắng cuộc của Huy Đức, với tôi, chỉ là dạng sách đọc giải trí tranh thủ trong phòng toa-lét mà thôi.
Khoằm góp vài ảnh chụp tài liệu cứng:




Đại Tướng nhận trách nhiệm đứng đầu Uỷ ban Quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch



Kết quả giai đoạn Đại Tướng nhận trách nhiệm đứng đầu Uỷ ban Quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch






Sau Đại Tướng thì ai đứng đầu Uỷ ban Quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch?








Tài liệu do bạn Linh Nguyễn cung cấp.

Bổ sung 1 - 09:01 - 17/10/2013:
Kẻ vô danhledunghcm  Wednesday, October 16, 2013 1:06:27 PM


Xem cái hình này thì thấy rằng ai làm về dân số cũng đáng hoan nghênh. VN vừa phải chiến tranh, vừa phải lo cho hàng chục triệu cái miệng ăn. Từ nghèo đói sang đủ ăn, mặc ấm rồi có dư để xuất khẩu gạo thì đó là một điều không thể phủ nhận

Chẳng những vậy khâm phục ở đại tướng là cho dù Đảng và Nhà Nước có phân công nhiệm vụ nào đi nữa thì cũng làm tốt, làm tròn trách nhiệm. Không hề kêu ca, than vãn, hay nản chí. Đó mới là người cộng sản chân chính luôn luôn được nhân dân kính trọng, yêu mến. 

29 tháng 6 2013

Bức tường Berlin - Câu chuyện về hình thành và sụp đổ


Bức tường Berlin, từng được Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức gọi là “Tường thành bảo vệ chống phát xít”, là một phần của biên giới nội địa nước Đức. 

Nó chia cắt phần Tây Berlin với phần phía đông của thành phố từ ngày 13 tháng 8 năm 1961 đến ngày 9 tháng 11 năm 1989, với lãnh thổ của nước Cộng hòa Dân chủ Đức bao bọc chung quanh Tây Berlin. 

Bức tường này là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của cuộc Chiến tranh Lạnh và của việc chia cắt nước Đức. Khoảng 5000 người đã tìm cách vượt qua bức tường để sang Tây Berlin. 

Số người bị thiệt mạng khi vượt tường nằm trong khoảng từ 86 đến 200 người.

Sau khi Đệ nhị thế chiến chấm dứt, nước Đức bị chia thành bốn vùng chiếm đóng theo Hội nghị Yalta, do các nước Đồng Minh (Mỹ, Liên Xô, Anh và Pháp) kiểm soát và quản lý. Berlin, đã là thủ đô của Đế chế Đức, cũng bị chia làm bốn khu vực tương tự như nước Đức. Cùng lúc đó cuộc Chiến tranh Lạnh giữa Đông và Tây cũng đã bắt đầu trên nhiều bình diện khác nhau. Berlin trở thành trung tâm của cuộc chiến giữa các cơ quan tình báo của cả hai phe. 

Trong năm 1948, cuộc phong tỏa Berlin của Liên bang Xô Viết là một trong những cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên trong cuộc Chiến tranh Lạnh.


Cuộc phong toả Berlin kéo dài từ ngày 24 tháng 6, 1948 đến ngày 11 tháng 5 năm 1949, là một trong những cuộc khủng hoảng quốc tế chính đầu tiên của Chiến tranh Lạnh và là cuộc khủng hoảng đầu tiên gây ra tổn thất.


Năm 1948, Stalin muốn giành toàn bộ thành phố Berlin cho Đông Đức nên đã ra lệnh phong tỏa tất cả đường bộ từ phía Tây Đức đến Tây Berlin nhằm bỏ đói dân Tây Berlin để họ phải đầu hàng Đông Đức. 

Phương Tây không vừa, họ thiết lập một cầu không vận, vận chuyển 1,5 triệu tấn lương thực, thuốc men, nhu yếu phẩm,... cho người dân phần Tây Berlin, tính ra trên 120.000 chuyến bay đến thành phố này trong vòng 10 tháng. Phong tỏa Berlin thất bại.

Trong năm 1949, khi nước Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) được thành lập trên ba vùng chiếm đóng ở phía tây. Ngay sau đó nước Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) được thành lập trong vùng phía đông do Liên bang Xô Viết chiếm đóng. 

Biên giới bắt đầu được cả hai bên tăng cường củng cố và canh phòng. Hai quốc gia được thành lập đã tạo nền tảng cho việc chia cắt nước Đức về chính trị. Đầu tiên, chỉ có cảnh sát biên phòng và lực lượng quân đội biên phòng được giao nhiệm vụ canh gác giữa Đông Đức và Tây Đức. 

Sau đấy Đông Đức bắt đầu xây dựng nhiều rào chắn. Về mặt hình thức, Berlin mang thể chế của một thành phố bao gồm bốn khu vực và là thành phố phi quân sự đối với quân đội Đức, đồng thời cũng là một thành phố độc lập so với cả hai quốc gia Đức – nhưng thật ra điều này không còn giá trị trong thực tế. 

Trên nhiều phương diện, Tây Berlin gần như mang thể chế của một tiểu bang, thí dụ như việc có đại diện (nhưng không có quyền bỏ phiếu) trong Quốc hội Liên bang Đức (Bundestag). Đi ngược lại hiệp định đã được ký kết, Đông Berlin trở thành thủ đô của nước Đông Đức.


Lính gác ở bức tường Berlin

Khi cuộc Chiến tranh Lạnh leo thang dẫn đến nhiều việc như cấm vận kỹ thuật cao COCOM cho khối Đông Âu, chiến tranh ngoại giao liên tục và đe dọa về quân sự, phía Đông đã tăng cường đóng kín biên giới. Biên giới này không còn chỉ là một biên giới giữa hai phần nước Đức mà đã trở thành biên giới giữa Hội đồng Tương trợ Kinh tế và Cộng đồng châu Âu, giữa khối NATO và khối Warsaw, tức là giữa hai thế lực khác nhau về tư tưởng chính trị, kinh tế và văn hóa, đã chính thức đối mặt thù địch nhau trong cuộc Chiến tranh Lạnh.

Từ khi Đông Đức được thành lập, người Đông Đức chạy sang Tây Đức ngày càng nhiều. Bắt đầu từ năm 1952 biên giới giữa hai nước Đức được bảo vệ bằng hàng rào và có lực lượng canh phòng. Một khu vực cấm dọc theo biên giới có chiều ngang 5 km được thành lập, người dân chỉ được phép đi vào khi có giấy phép đặc biệt – thông thường là chỉ cho những người dân cư trong vùng. 

Về hướng biên giới là một giải đất bảo vệ rộng 500 m và tiếp theo ngay sau đó, trực tiếp cạnh biên giới, là một giải đất canh phòng có chiều ngang 10 m. Trong khi đó tại Berlin, ranh giới của các khu vực chiếm đóng giữa Tây Berlin và Đông Berlin lại vẫn còn bỏ ngỏ, vì thế mà gần như không thể kiểm soát được và trở thành một lỗ hổng để người dân từ Đông chạy qua Tây Berlin. 

Từ 1949 cho đến 1961 khoảng 2,6 triệu người đã rời bỏ Đông Đức và Đông Berlin, trong số đó vẫn còn 47.433 người chạy trốn chỉ riêng trong hai tuần đầu của tháng 8 năm 1961. 

Ngoài ra Tây Berlin cũng là cửa ngỏ đi đến phương Tây cho nhiều người Ba Lan và Tiệp Khắc. Vì những người này thường là những người trẻ tuổi và được đào tạo tốt, nên việc di dân này là mối đe dọa cho sức mạnh kinh tế của Đông Đức và cho sự tồn tại của quốc gia này.

Thêm vào đó khoảng 50.000 người dân Đông Berlin tuy hằng ngày làm việc ở Tây Berlin nhưng lại sinh sống và cư ngụ dưới những điều kiện rẻ tiền hơn ở Đông Berlin hay ở những vùng ngoại thành Berlin. 

Vào ngày 4 tháng 8 năm 1961, Hội đồng thành phố Đông Berlin ban quy định bắt buộc những người này phải đăng ký và phải trả tiền nhà cũng như những phí tổn phụ (điện, nước) bằng tiền Mark của Tây Đức (Deutsche Mark). 

Trước khi bức tường được xây dựng, lực lượng Công an Nhân dân của Đông Đức tại Đông Berlin cũng đã kiểm soát nghiêm ngặt các con đường và phương tiện giao thông đi qua phần phía tây của thành phố để ngăn chặn những người “chạy trốn cộng hòa” và “buôn lậu”. 

Ngược lại, nhiều người ở Tây Berlin và người Đông Berlin nhưng làm việc tại Tây Berlin đã dùng tiền Mark Đông Đức được đổi với giá rẻ trên thị trường chợ đen – tỷ giá hối đoái thời điểm đấy là 1:4 – để mua lương thực thực phẩm tương đối rẻ và các hàng hóa tiêu dùng cao cấp ít ỏi ở Đông Berlin. 

Qua đó hệ thống kinh tế theo chế độ kinh tế kế hoạch của Đông Đức lại càng suy yếu đi. 

Bức tường được xây dựng để phục vụ cho ý định của những người cầm quyền Đông Đức, là đóng kín cửa biên giới để chấm dứt cái được gọi một cách bình dân là “bỏ phiếu bằng chân”, hay nói cách khác là người dân rời bỏ “quốc gia công nông xã hội chủ nghĩa”.

Bức tường được xây dựng theo chỉ thị của lãnh đạo Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức (Sozialistische Einheitspartei Deutschlands – SED), dưới sự bảo vệ và canh phòng của lực lượng Công an Nhân dân và Quân đội Nhân dân Quốc gia, và trái với những lời cam đoan của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước của Đông Đức, Walter Ulbricht. 

Ông này là người trong một cuộc họp báo quốc tế tại Đông Berlin vào ngày 15 tháng 6 năm 1961 đã trả lời câu hỏi của nữ nhà báo Tây Đức Annamarie Doherr:
Tôi hiểu câu hỏi của bà là có hay không những người ở Tây Đức muốn chúng tôi huy động công nhân xây dựng tại thủ đô nước Đông Đức để lập nên một bức tường? 
Tôi không biết có một ý định như thế, vì những người công nhân xây dựng của thủ đô đã dốc toàn lực của họ để xây chủ yếu nhà dân cư. 
Không một ai có ý định dựng lên một bức tường cả!
Vậy là, Ulbricht chính là người đầu tiên sử dụng khái niệm bức tường trong việc này – hai tháng trước khi nó được dựng lên.

Sau đó, theo thông điệp chính thức được phát ra ngày 12/8/1961 của Nước cộng hòa dân chủ Đức (Deutsche Demokratische Republik – DDR): 

«Để dễ dàng cho việc kiểm soát sự di cư của người dân Đông Đức, chúng ta sẽ đặt ra một dạng đường biên giới ngay phần đất giới hạn của DDR và SED, qua đó xác định được số người dân qua lại, khi mà họ sử dụng đường bộ hành.»

Vào buổi sáng ngày chủ nhật 13/8/1961, những dây thép gai và cột gỗ được chuyển đến vùng đất ranh giới giữa Đông và Tây Đức, trong khi cảnh sát ngăn cản người dân băng qua biên giới: hàng rào được tạo nên từng bước một.

Sau đó, dây thép gai được thay thế bằng một bức tường đá với kích cỡ khá to, những cánh cổng và cửa sổ của các khu nhà phố Bernauer (Bernauer Straße) ở đấy cũng góp phần vào việc phân chia rõ biên giới. 

Những lề đường thuộc về quận Wedding (thuộc Đông Đức) trong khi các khu nhà lại thuộc về quận Mitte (nằm ở địa phận Tây Đức). 

Người dân ở đấy nếu muốn đi vào nhà họ thì đầu tiên phải được phép đi qua các cửa khẩu để qua phía bên kia biên giới. 

Ngày hôm trước họ còn nói chuyện với người hàng xóm, ngày hôm sau đã không được phép sang thăm nhau nữa vì ngôi nhà đó thuộc về một đảng phái chính trị khác.

Trong suốt năm 1961 và sau đó, có rất nhiều nhà ở vùng biên giới bị bắt phải dọn đi.

Tuy quân đội Đồng Minh phía Tây đã có thông tin về kế hoạch của “những biện pháp cứng rắn” nhằm để phong tỏa Tây Berlin thông qua những người tin cậy, nhưng họ vẫn ngạc nhiên về thời điểm cụ thể và quy mô của rào cản này. Do quyền ra vào Tây Berlin không bị cắt xén nên phương Tây đã không can thiệp bằng quân sự. 

Cơ quan tình báo Liên bang Đức (Bundesnachrichtendienst – BND) cũng đã nhận được nhiều thông tin tương tự ngay từ giữa tháng 7. Sau khi Ulbricht viếng thăm Nikita Sergeyevich Khrushchyov trong thời gian của cuộc họp cấp cao các nước trong khối Warsaw tại Matx-cơ-va từ 3 tháng 8 đến 5 tháng 8, báo cáo hằng tuần của BND vào ngày 9 tháng 8 đã ghi lại:

Thông tin cho thấy chế độ Pankow đang cố gắng đạt được sự đồng ý của Mátxcơva để tiến hành nhiều biện pháp ngăn cản có hiệu quả hơn – thuộc vào trong số đó đặc biệt là việc thắt chặt biên giới của các khu vực chiếm đóng ở Berlin và làm gián đoạn giao thông tàu điện ngầm và tàu nhanh ở Berlin
Trong tuyên bố của các quốc gia thành viên trong hội nghị của khối Warsaw đã có lời đề nghị:
phải chặn đứng các hoạt động phá hoại ngấm ngầm chống lại các nước phe xã hội chủ nghĩa tại biên giới Tây Berlin, và phải đảm bảo canh gác và kiểm soát có hiệu quả vùng Tây Berlin.
Vào ngày 11 tháng 8 Quốc hội của Đông Đức chấp thuận kết quả của hội nghị Matx-cơ-va và ủy nhiệm cho Hội đồng Bộ trưởng tiến hành tất cả các biện pháp tương ứng. 

Ngày 12 tháng 8 Hội đồng Bộ trưởng quyết định sử dụng các «lực lượng vũ trang» để canh phòng biên giới với Tây Berlin và để xây dựng rào chắn biên giới.

Trong ngày thứ Bảy 12 tháng 8, cơ quan BND nhận được thông tin từ Đông Berlin, rằng:
vào ngày 11 tháng 8 năm 1961 đã có cuộc họp các bí thư các nhà xuất bản thuộc Đảng và các cán bộ Đảng khác tại Ủy ban Trung ương Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức. 
Tại đấy, ngoài những việc khác là tuyên bố: Do tình hình dòng người di tản tăng liên tục, việc khóa kín phần phía đông của Berlin và khu vực chiếm đóng phía đông cần phải thực hiện trong những ngày sắp đến – một thời điểm cụ thể không được nêu ra – chứ không như theo kế hoạch là đến 14 ngày nữa.“
Trong đêm 12 rạng sáng ngày 13 tháng 8 năm 1961 Quân đội Nhân dân Quốc gia, người của Cảnh sát biên phòng (tiền thân của Lực lượng Biên phòng sau này), người thuộc Công an Nhân dân và người thuộc lực lượng công nhân vũ trang bắt đầu phong tỏa các đường bộ và đường sắt dẫn đến Tây Berlin. 

Quân đội Xô Viết được đặt trong tình trạng báo động và hiện diện tại các cửa khẩu biên giới của Đồng Minh. Tất cả các liên kết giao thông còn tồn tại giữa hai phần Berlin đều bị gián đoạn.

Erich Honecker vào thời điểm đó dưới cương vị là bí thư trung ương Đảng về an ninh, đã nhân danh ban lãnh đạo Đảng chịu trách nhiệm chính trị về việc lên kế hoạch và thực hiện việc xây bức tường. 

Ngay trong cùng ngày Thủ tướng Liên bang Konrad Adenauer đã kêu gọi qua đài phát thanh yêu cầu người dân hãy bình tĩnh và thận trọng, nhắc đến việc sẽ phối hợp cùng với lực lượng Đồng Minh để có phản ứng tiếp theo. Mãi hai tuần sau khi bức tường được xây dựng ông mới viếng thăm Tây Berlin. 

Chỉ riêng thị trưởng Berlin đương nhiệmWilly Brandt đã cực lực phản đối, nhưng cuối cùng ông cũng bất lực trước việc xây bức tường bao quanh Tây Berlin chia cắt thành phố. 

Ngay trong năm đó, các tiểu bang Tây Đức đã thành lập Trung tâm Thu thập của Hành chánh Tư pháp Tiểu bang (Zentrale Erfassungsstelle der Landesjustizverwaltungen) tại Salzgitter để ghi nhận lại các vi phạm về quyền con người trên lãnh thổ Đông Đức. 

Vào ngày 16 tháng 8 năm 1961, Willy Brandt và 300.000 người dân Tây Berlin đã biểu tình trước Tòa thị chính Schöneberg.

Đồng Minh phía tây phản ứng rất chậm chạp: mãi 20 tiếng sau đó, lực lượng quân sự mới xuất hiện tại biên giới. 

Sau 40 tiếng một bức thư mới được gửi đến Ban chỉ huy quân sự Xô Viết Berlin, và mãi đến 72 tiếng sau đó, để cho đầy đủ về mặt hình thức, các phản đối mang tính ngoại giao của phe Đồng Minh phía tây mới được gửi đến Matx-cơ-va. 

Có nhiều tin đồn cho rằng trước đó Liên bang Xô Viết đã bảo đảm với phe Đồng Minh phía tây là Liên bang Xô Viết sẽ không đụng chạm đến quyền lợi của họ ở Tây Berlin. 

Trên thực tế, từ kinh nghiệm của Cuộc phong tỏa Berlin, trong mắt của Đồng Minh phía Tây, thể chế của Tây Berlin luôn luôn bị đe dọa. 

Việc xây bức tường chính là tuyên ngôn bằng hiện vật của nguyên trạng đương thời, cái mà giờ đây chỉ được xây nền tảng bằng bê tông theo đúng nghĩa đen của nó. 

Có thể thấy rõ rằng Liên bang Xô Viết đã từ bỏ yêu cầu về một thành phố Berlin “tự do”, phi quân sự được thể hiện trong tối hậu thư của Khrushchyov năm 1958.

Phản ứng quốc tế năm 1961:

* “Một giải pháp không hay lắm nhưng vẫn tốt hơn chiến tranh hằng ngàn lần.” John F. Kennedy, Tổng thống Mỹ.

* “Người Đông Đức chận dòng người tỵ nạn lại, và cố thủ sau một bức màng sắt dầy hơn. Điều đấy không có gì là phạm pháp cả.” Harold Macmillan, Thủ tướng Anh.

Tuy vậy Tổng thống John F. Kennedy cũng đã đứng sát cạnh với “thành phố tự do” Berlin. Ông gửi thêm lực lượng quân sự gồm 1.500 người đến Tây Berlin và tái động viên tướng Lucius D. Clay. Vào ngày 19 tháng 8 năm 1961 Clay và Phó Tổng thống Lyndon B. Johnson đến thăm Berlin.

Một cuộc chạm trán trực tiếp có vẻ nguy hiểm giữa quân đội Mỹ và Xô Viết xảy ra vào ngày 27 tháng 10 năm 1961 tại Checkpoint Charlie trên đường Friedrich (Friedrichstraße) khi 10 chiếc tăng mỗi bên đã đỗ đối diện nhau ngay trước vạch ranh giới. 

Thế nhưng vào ngày hôm sau cả hai nhóm tăng đều được rút về, cả hai phe đều không muốn vì Berlin mà cuộc Chiến tranh Lạnh sẽ leo thang hay cuối cùng là đi đến một cuộc chiến tranh hạt nhân.

Từ ngày 1 tháng 6 năm 1952 dân cư trong Tây Berlin không còn được phép tự do vào Đông Đức. Sau nhiều cuộc thương lượng kéo dài Hiệp định giấy thông hành (Passierscheinabkommen) được ký kết năm 1963, tạo điều kiện cho hằng trăm ngàn người Tây Berlin thăm viếng họ hàng trong phần phía đông của thành phố vào dịp cuối năm.



Cấu trúc hệ thống bảo vệ biên giới tại Berlin

Biển cảnh báo tại vùng biên giới (Vùng biên giới, chỉ được phép vào với giấy phép đặc biệt.)

Bức tường Berlin được hoàn thiện bằng nhiều công trình rộng khắp ở cạnh biên giới với Tây Đức. 

Cũng như phần biên giới nội Đức còn lại, Bức tường Berlin được củng cố với nhiều hệ thống rộng lớn bao gồm hàng rào kẽm gai, hào, vật cản xe tăng, đường tuần tra và tháp canh. 

Chỉ riêng chó đặc nhiệm đã có khoảng 1.000 con đã được sử dụng cho đến đầu thập niên 1980. 

Các hệ thống này được liên tục mở rộng qua nhiều thập niên. Các ngôi nhà gần bức tường đều bị giật sập, dân cư trong các ngôi nhà đó đã bị bắt buộc di chuyển sang nơi khác trước đấy. 

Ngay cả Nhà thờ Hòa giải trên đường Bernau (Bernauer Straße) cũng bị giật sập vào ngày 28 tháng 1 năm 1985. 

Theo thông tin của Bộ An ninh Quốc gia trong mùa xuân 1989, hệ thống chung quanh Bức tường Berlin bao gồm:

* 41,91 km tường có chiều cao 3.60 m

* 58,95 km tường có chiều cao 3,40 m

* 68,42 km hàng rào bằng kim loại có chiều cao 2,90 m làm “vật cản trước”

* 161 km đường đi có hệ thống chiếu sáng

* 113,85 km hàng rào có hệ thống báo động

* 186 tháp canh

* 31 cơ sở chỉ huy
Lính Liên Xô đứng gác bức tường Berlin 1989

Trong tổng số 156,4 km biên giới với Tây Berlin, 43,7 km nằm trong thành phố Berlin và 112,7 km nằm trong tỉnh Potsdam. Có 63,8 km chạy qua khu vực có công trình xây dựng, 32 km xuyên qua vùng có rừng, 22,65 km qua đồng trống và 37,95 km nằm cạnh sông hay hồ.

Vào thời gian cuối, hệ thống bảo vệ biên giới bao gồm (từ hướng của Đông Đức):

* Tường bê tông hay rào sắt cao khoảng từ 2 đến 3 mét

* Dưới đất là hệ thống phát tín hiệu báo động khi chạm vào

* Rào sắt cao hơn đầu người có gắn kẽm gai và dây báo động

* Ngoài ra nhiều đoạn còn có chó đặc nhiệm, hào cản xe cơ giới và cản xe tăng, chỉ được hủy bỏ sau khi Tây Đức cho vay hằng tỉ đồng DM.

* Đường đi có chiếu sáng về đêm cho lực lượng biên phòng

* Tháp canh (tổng cộng 302 tháp vào năm 1989)

* Bức tường Berlin

* Trước đấy là vài mét lãnh thổ của nước Đông Đức.

Hệ thống bảo vệ biên giới này có chiều ngang tổng cộng khoảng từ 30 m đến khoảng 500 m (ở Quảng trường Potsdam) tùy thuộc vào địa hình. Mìn và hệ thống súng bắn tự động không được lắp đặt ở Bức tường Berlin nhưng được gắn dọc theo biên giới nội Đức.

Theo thông tin của Bộ An ninh Quốc gia (Đông Đức), lực lượng biên phòng của khu vực biên giới với Tây Berlin bao gồm 11.500 quân nhân và 500 nhân viên dân sự. 

Ngoài bộ tham mưu đóng ở Berlin-Karlshorst lực lượng này bao gồm 7 trung đoàn đóng tại Berlin-Treptow, Berlin-Pankow, Berlin-Rummelsburg, Hennigsdorf, Groß-Glienicke, Potsdam-Babelsberg và Kleinmachnow cũng như là 2 trung đoàn tập huấn tại Wilhelmshagen và Oranienburg.

Mỗi trung đoàn có 5 đại đội biên phòng, ngoài ra là mỗi một trung đội của các binh chủng công binh, truyền tin, vận tải, súng cối và pháo binh, súng phóng lửa và một đội chó đặc nhiệm. 

Ngoài ra còn có thể có một đại đội thuyền hải quân.

Lực lượng canh phòng biên giới có hơn 567 xe bọc thép chở quân, 48 súng cối, 48 đại bác chống tăng, 114 súng phóng lửa cũng như là 156 xe bọc thép hay xe công binh và 2.295 xe cơ giới khác, 992 chó đặc nhiệm.

Vào một ngày bình thường có khoảng 2.300 quân nhân nhận nhiệm vụ canh phòng trực tiếp tại biên giới và vùng cận biên giới.

Tại Bức tường Berlin có 25 nơi qua biên giới, 13 cửa khẩu cho đường ô tô, 4 cho tàu hỏa và 8 cửa khẩu đường sông, chiếm 60% tất cả các cửa khẩu biên giới giữa Đông Đức và Tây Đức. Sau khi hai nước Đức thống nhất tiền tệ vào ngày 1 tháng 7 năm 1990, toàn bộ các cửa khẩu biên giới nội địa Đức được hủy bỏ, một vài phần còn lại được giữ làm kỷ niệm
Một góc của bức tường


Bắt từ đầu thập niên 1970 với chính sách tiếp cận giữa Đông Đức và Tây Đức do Willy Brandt và Erich Honecker mở đầu, biên giới của hai quốc gia được mở rộng hơn một ít. 

Đông Đức bắt đầu cho phép đi du lịch dễ dàng hơn, đặc biệt là cho những nhóm người “phi sản xuất” như những người đang nghỉ hưu và cho phép công dân Tây Đức thăm viếng một cách đơn giản hơn từ những vùng gần biên giới. 

Một quyền tự do du lịch rộng rãi bị Đông Đức gắn liền với việc công nhận thể chế là một quốc gia độc lập và với yêu cầu trao trả các công dân Đông Đức đi du lịch nhưng không muốn trở về nữa, Tây Đức đã không muốn thỏa mãn các yêu cầu này vì hiến pháp không cho phép.

Trong tuyên truyền, Đông Đức đã gọi bức tường này cũng như toàn bộ việc bảo vệ biên giới là “bức tường thành chống phát xít” (antifaschistischer Wall), bảo vệ nước Đông Đức chống lại việc “di dân, xâm nhập, gián điệp, phá hoại, buôn lậu, bán tống bán tháo và gây hấn từ phương Tây“.

Lý do dẫn đến việc mở cửa bức tường, một mặt là vì các cuộc biểu tình tuần hành rộng lớn và yêu cầu tự do đi lại trong Đông Đức trước kia, mặt khác là vì việc “bỏ trốn Cộng hòa” (Republikflucht) liên tục của một số lớn người dân từ Đông Đức sang Tây Đức theo cách vòng qua nước ngoài như Hungary – nước đã mở cửa biên giới với Áo từ ngày 11 tháng 9, hay trực tiếp từ Tiệp Khắc từ đầu tháng 11, hoặc qua các đại sứ quán Đức tại các thủ đô của các quốc gia ở Đông Âu, trong đó là các đại sứ quán tại Praha và Warsaw.

Sau khi bản dự thảo cho Luật đi lại mới (Reisegesetz) được công bố vào ngày 6 tháng 11 vấp phải phản đối cực lực, và bị lãnh đạo Tiệp Khắc ngày càng phản đối mạnh mẽ bằng con đường ngoại giao về việc công dân Đông Đức bỏ đi thông qua lãnh thổ Tiệp Khắc, Bộ chính trị của Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Đức quyết định thay đạo luật mới bằng một quy định về việc ra nước ngoài. 

Một bản dự thảo cho quyết định này, có thêm phần về việc xuất ngoại để thăm viếng, được Bộ chính trị xác nhận và chuyển tiếp đến Hội đồng Bộ trưởng. 

Tại đấy, theo như dự tính thì bản dự thảo trình Hội đồng Bộ trưởng cần được hoàn thành và thông qua ngay trong ngày, để có thể được công bố bắt đầu từ lúc 4 giờ ngày hôm sau qua hãng thông tấn xã nhà nước ADN. 

Thế nhưng trong quy trình thông qua đã có ý kiến phản đối từ Bộ Tư pháp. Song song với việc này, bản dự thảo trình Hội đồng Bộ trưởng được đưa ra bàn thảo vào buổi chiều ngày hôm đó trong Ủy ban Trung ương Đảng và được sửa đổi nhỏ. 

Phiên bản này của dự thảo được Egon Krenz trao cho thành viên của Bộ Chính trị Günter Schabowski, người vắng mặt trong các cuộc họp trước đó của Bộ chính trị và Ủy ban Trung ương Đảng, trước khi Schabowski tổ chức họp báo về kết quả của lần họp Ủy ban Trung ương Đảng.

Cuộc họp báo với Günter Schabowski trong Sở Báo chí/Trung tâm Báo chí Quốc tế trên đường Mohren (Mohrenstraße) số 38 tại Đông Berlin (hiện nay là một phần của Bộ Tư pháp Liên bang) được truyền hình trực tiếp và được nhiều người theo dõi, và chính là ngòi nổ mở cửa bức tường. 

Vào cuối cuộc họp báo vào lúc 18 giờ 57, gần như là việc phụ, Schabowski đọc từ tờ giấy được đưa cho ông bản dự thảo dành cho Hội đồng Bộ trưởng:
Có thể làm đơn xin du lịch cá nhân ra nước ngoài mà không cần có điều kiện như lý do xuất ngoại hay quan hệ họ hàng. 
Giấy phép sẽ được cấp trong thời hạn ngắn. Các ban phòng có thẩm quyền về hộ chiếu và khai báo cư trú của các cơ quan Công an Nhân dân cấp huyện trong nước Đông Đức có thể nhanh chóng cấp giấy thông hành ra nước ngoài thường xuyên theo như chỉ thị.  
Có thể liên tục ra nước ngoài tại tất cả các cửa khẩu biên giới giữa nước Đông Đức và Tây Đức.

- “Khi nào? Ngay lập tức?” Một nhà báo, Peter Brinkmann phóng viên thường trực của báo Bild tại Đông Đức, hỏi.

Schabowski (lục lọi trong chồng giấy tờ của ông): - “Theo như tôi biết – thì ngay lập tức, không chậm trễ”.

(Trích dẫn theo Hans-Hermann Hertle, Katrin Elsner trong quyển “Mein 9. November”, NXB Nicolai, Berlin,1999)

Dựa trên thông tin từ các đài truyền thanh và truyền hình của Tây Đức và Tây Berlin dưới tựa đề được diễn giải một cách sai lầm là “Bức tường đã mở!” hằng ngàn người dân Đông Berlin đã kéo đến các cửa khẩu và yêu cầu mở cổng. 

Vào thời điểm này, không những lực lượng biên phòng mà ngay cả các đơn vị kiểm tra hộ chiếu chịu trách nhiệm về thủ tục thuộc Bộ An ninh Quốc gia cũng hoàn toàn không được thông báo gì về vấn đề này. 

Dưới áp lực của số đông quần chúng, ngay sau 23 giờ, cửa khẩu biên giới tại đường Bornholmer (Bornholmer Straße) ở Berlin được mở đầu tiên mà không có lệnh hay chỉ đạo cụ thể, sau đấy là các cửa khẩu khác trong thành phố Berlin cũng như tại biên giới nội địa Đức. 

Ngay tối khuya đó, nhiều người đã theo dõi việc mở các cửa khẩu biên giới qua truyền hình và một phần đã bắt đầu ra đi. “Cơn bão” bắt đầu vào sáng ngày hôm sau, ngày 10 tháng 11 năm 1989, vì rất nhiều người vẫn còn đang ngủ khi biên giới được mở vào giữa đêm khuya.

Công dân Đông Đức đã được người dân Tây Berlin đón chào nồng nhiệt. 

Phần lớn các quán bia gần bức tường tự phát cho uống bia không phải trả tiền và trên đại lộ Kurfürstendamm là hằng đoàn ô tô bóp còi diễu hành, những người hoàn toàn xa lạ ôm choàng lấy nhau. 

Khi có thông tin về việc bức tường được mở cửa, Quốc hội Liên bang đã tạm ngừng phiên họp về ngân sách quốc gia và các nghị sỹ đã tự phát hát quốc ca.

Cho đến tháng 9 năm 1961, chỉ riêng từ lực lượng canh phòng đã có 85 người đào ngũ sang Tây Berlin, ngoài ra là khoảng 200 lần chạy trốn thành công của tổng cộng 400 người. 

Mãi mãi không quên là các bức ảnh nổi tiếng chụp những người chạy trốn được thả xuống từ các ngôi nhà lân cận bằng dây làm từ tấm vải trải giường hay của người cảnh sát biên phòng trẻ tuổi Conrad Schumann đang chạy qua hàng rào kẽm gai trên đường Bernauer (Bernauer Straße).

Thông tin về con số những người chết tại Bức tường Berlin chứa nhiều mâu thuẫn và cho đến ngày hôm nay vẫn chưa chắc chắn, năm 2000 Viện công tố Berlin cho biết con số có thể minh chứng được của những nạn nhân đã chết vì bạo lực tại Bức tường Berlin là khoảng 100 người. 

Từ tháng 8 năm 2005 một dự án được Hội Bức tường Berlin (Verein Berliner Mauer) cùng với Trung tâm nghiên cứu lịch sử đương đại Potsdam tiến hành với mục đích điều tra con số chính xác của những nạn nhân bức tường và lịch sử của những nạn nhân này. 

Theo một công bố vào ngày 8 tháng 8 năm 2006, 125 người chết trong số 268 vụ việc điều tra đã có thể được minh chứng rõ ràng, 62 vụ việc có trong nhiều danh sách nạn nhân có thể được loại bỏ vì không đúng và 81 vụ việc cần phải được tiếp tục điều tra thêm. 

Một nửa nạn nhân đã chết trong vòng 5 năm đầu tiên sau khi bức tường được xây dựng, khoảng 2/3 trong thời gian cho đến năm 1969, phần lớn nạn nhân là nam giới dưới 30 tuổi. 

Tiếp theo sau công bố này tranh cãi đã bùng nổ gay gắt về con số nạn nhân và về các phương pháp điều tra những vụ việc đã xảy ra tại bức tường. 

Cộng đồng Ngày 13 tháng 8 (Arbeitsgemeinschaft 13. August), tổ chức với một danh sách có tổng cộng 262 nạn nhân, cho rằng dự án này đã cố tình “tính toán” số nạn nhân nhỏ đi vì lý do chính trị. 

Ngược lại Cộng đồng Ngày 13 tháng 8, tổ chức không có chuyên gia về lịch sử tham gia vào trong các điều tra, bị cho rằng đã đưa vào trong danh sách nhiều trường hợp không rõ ràng, không được minh chứng có liên quan trực tiếp đến các vụ việc xảy ra tại biên giới hay ngay cả những vụ việc mà hiện nay đã bị phản chứng.

Nạn nhân đầu tiên của Bức tường là Ida Siekmann, người đã tử nạn khi nhảy từ cửa sổ của một căn nhà trên đường Bernau (Bernauer Straße) xuống vào ngày 22 tháng 8 năm 1961

Vào ngày 24 tháng 8 năm 1961 các phát súng đầu tiên đã bắn chết Günter Litfin, 24 tuổi, trong khi anh cố chạy trốn ở gần Nhà ga trên đường Friedrich. 

Một năm sau khi tường Berlin được xây dựng, Peter Fechter, khi đó 18 tuổi, cùng bạn là Helmut Kulbeik quyết định chạy trốn khỏi nước Đông Đức để đến Tây Đức, chỉ cách nhau một bức tường cao gần 2m có dây thép quấn ở trên. 

Trưa ngày 17 tháng 8 năm 1962, họ trốn trong xưởng của một thợ gỗ để theo dõi các lính biên phòng Đông Đức.


Khi cả 2 người cùng chạy ra và leo lên tường, họ bị lính biên phòng Đông Đức cùng nhắm bắn. 

Kulbeik nhảy được qua bên phía kia, nhưng Fechter bị bắn trúng vào lưng trước sự chứng kiến của nhiều nhân chứng, cậu rơi xuống lại bên phía đông bức tường, vướng trong dây thép gai, Fechter khóc và kêu cứu, nhưng lính Đông Đức bỏ mặc cậu. 

Sau khi bị để cho chảy máu đến chết trong 1 giờ đồng hồ, tiếng kêu khóc nhỏ dần và Fechter chết trong lúc nhân dân Tây Đức thành lập một cuộc biểu tình hàng trăm người ở bên kia bức tường và hét to “Lũ giết người!”.

Trong lúc người phía Tây không thể sang cứu do súng chĩa vào họ, một sĩ quan Mỹ ở Tây Đức cũng nhận được lệnh của thượng cấp “không được hành động”, phía Đông thì chỉ ra dọn xác chết cả giờ đồng hồ sau đó vì sợ bốc mùi thối.

Sau khi Peter Fechter chết, mọi người mới bắt đầu tỏ ra thương tiếc, nhưng đa phần chỉ có phía Tây tỏ ra thương tiếc. Tỉnh trưởng Tây Berlin ông Herbert Frahm (Willy Brandt) đi đặt vòng hoa, mặc dù họ đã chẳng làm gì để cứu. Sau khi Đông Đức sụp đổ, một nơi tưởng niệm được lập ra ngay tại nơi Fechter bị bỏ mặc đến chết.


Trong năm 1966 hai trẻ em 10 và 13 tuổi đã bị bắn chết bởi 40 phát súng. 

Nạn nhân cuối cùng bị bắn chết là Chris Gueffroy vào ngày 6 tháng 2 năm 1989.
Bức tường Berlin

Tháng 7-1965, Tây Đức phát hành một con tem diễn tả cảnh người Đông Đức chạy sang miền Tây: 

Name:  01.jpg
Views: 131
Size:  97.5 KB

Đây là một bì thư dán con tem trên gửi từ Tây Đức đi Frankfurt đúng ngày phát hành: 

Name:  02.jpg
Views: 130
Size:  47.1 KB


Con tem được hủy hoàn toàn theo nghĩa đen; dấu "Zuruck" (Trả lại người gửi) được đóng lên mặt trước. 

Name:  03.jpg
Views: 128
Size:  58.8 KB

Mặt sau có hai dấu "Không thấy phố ở Frankfurt " và "Tìm không được."

Nước Đức có hai Frankfurt, Frankfurt trên sông Main thuộc về Tậy Đức, thời kỳ đầu chiến tranh lạnh, thành phố này được dự định chọn làm thủ phủ Tây Đức, nhưng sau đó lại chọn Bonn.
Còn Frankfurt trên sông Oder thuộc về Đông Đức, khoảng những năm 1980 tại Việt Nam có cuốn tiểu thuyết "Mùa xuân trên sông Ô đe" được dịch từ tiếng Nga, sông Ô đe (Oder) là con sông chảy qua thành phố Frankfurt/Oder.


Hãy phá đổ bức tường này” (Tear down this wall) là bài diễn văn nổi tiếng của Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan tại Cổng Brandenburg, bên cạnh Bức tường Berlin vào ngày 12 tháng 6 năm 1987. 

Ông đã thách thức nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Sergeyevich Gorbachyov hãy phá bỏ Bức tường Berlin, để biểu hiện sự ước muốn của Gorbachev trong việc gia tăng sự tự do tại khối Xô Viết. Hoa Kỳ luôn xem Xô Viết phải có trách nhiệm phá vỡ Bức tường Berlin, vì tất cả quyền hành trong chính phủ Đông Đức đều cho Xô Viết kiểm xoát.
General Secretary Gorbachev, if you seek peace, if you seek prosperity for the Soviet Union and Eastern Europe, if you seek liberalization, come here to this gate. Mr. Gorbachev, open this gate. Mr. Gorbachev, tear down this wall!
"Tổng Bí thư Gorbachev, nếu ông muốn tìm hòa bình, nếu ông muốn tìm thịnh vượng cho Liên Xô và Đông Âu, nếu ông muốn tìm giải phóng, hãy đến tại cổng này. Ông Gorbachev, hãy mở cánh cổng này. Ông Gorbachev, hãy phá đổ bức tường này!"
Có nhiều tranh cãi về sức ảnh hưởng về sự thách thức Tổng thống Reagan mang đến, có nguồn cho rằng bài diễn văn là điểm bắt đầu cho sự thay đổi và sự sụp đổ Bức tường Berlin, những nguồn khác thì cho rằng bài diễn văn của Reagan chỉ đơn giản cùng chung một thời điểm. 

Tuy nhiên, không ai nghi ngờ sự chống đối cương quyết của Reagan với giới lãnh đạo Xô Viết là một yếu tố chính trong việc lật đổ các chính thể cộng sản, điều này đã xảy ra trong hai năm ngay sau khi ông rời nhiệm sở tại Nhà trắng.

Vào ngày 18 tháng 10 năm 1989, nhà lãnh đạo Đông Đức Erich Honecker từ chức. 

Các lãnh đạo mới của Đông Đức nới lỏng hạn chế cho dân Đông Đức rời khỏi quốc gia, ngay lập tức đánh dấu sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào ngày 9 tháng 11, 1989. 

Bức tường sụp đổ trong đêm thứ Năm ngày 9 tháng 11, rạng sáng ngày thứ Sáu ngày 10 tháng 11 năm 1989,sau hơn 28 năm

Bức tường chính thức được phá vào ngày 13 tháng 6 năm 1990. Nhiều người tham gia với sự khởi đầu của 300 người lính biên phòng RDA và 600 lính Bundeswehr. Nhiều thiết bị khác như 13 xe máy ủi, 65 chiếc cần cẩu và 175 xe camion đã san bằng bức tường phân đôi Berlin vào ngày 30-11, để lại 6 phần với mục đích tưởng niệm.

Sau khi Cộng hoà Dân chủ Đức giải tán tháng 10 năm 1990, vợ chồng Honecker ở với gia đình vị mục sư Lutheran Uwe Holmer. 

Sau đó Honecker sống trong một bệnh viện quân sự Liên xô gần Berlin trước khi bỏ trốn với Margot Honecker tới Moscow, để tránh bị truy tố vì các trách nhiệm tội ác thời Chiến tranh Lạnh. 

Sau sự sụp đổ của Liên xô tháng 12 năm 1991, Honecker vào tị nạn trong đại sứ quán Chile tại Moscow, nhưng đã bị chính phủ Yeltsin trục xuất về Đức năm 1992. 

Sau khi thống nhất nước Đức, các vụ án xử những người ra lệnh bắn kéo dài cho đến mùa thu năm 2004. 

Theo nhiều dự tính, khoảng 75.000 người đã phải ra tòa án trong Đông Đức vì tội chạy trốn, tội mà theo điều 213 Bộ Luật hình sự nước Đông Đức có thể lãnh án đến 8 năm tù, những ai giúp đỡ chạy trốn còn có thể bị án tù chung thân.
Thuộc vào trong số những người chịu trách nhiệm bị xử án là Erich Honecker, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước và người kế nhiệm Egon Krenz, các thành viên của Hội đồng Quốc phòng Erich Mielke, Willi Stoph, Heinz Keßler, Fritz Streletz và Hans Albrecht, bí thư tỉnh Suhl, cũng như là một vài tướng lãnh như cựu chỉ huy lực lượng biên phòng (1979-1990), đại tướng Klaus-Dieter Baumgarten. 

Tổng cộng có 35 người được trắng án, 44 người bị tù treo và 11 người lãnh án tù, trong đó Albrecht, Streletz và Kessler cũng như là Baumgarten đã lãnh án từ 4 năm 6 tháng đến 7 năm 6 tháng tù giam. Trong tháng 8 năm 2004 Hans-Joachim Böhme và Werner Lorenz, cựu thành viên của Bộ Chính trị, đã nhận án treo từ Tòa án Berlin (Landgericht Berlin).

Ông Honecker bị chính phủ Đức buộc tội liên quan tới những cái chết của 192 người Đông Đức tìm cách bỏ trốn trái phép sang Cộng hoà Liên bang Đức. 

Tuy nhiên, khi phiên toà chính thức mở ra đầu năm 1993, Honecker đã được thả ngày 13 tháng 1 vì sức khoẻ kém. Ông sang Chile sống cùng con gái Sonja, cùng người chồng người Chile Leo Yáñez, và con trai Roberto. Ông chết trong cảnh lưu vong vì ung thư gan tại Santiago ngày 29 tháng 5 năm 1994.

Honecker sinh tại Max-Braun-Straße ở Neunkirchen, hiện là Saarland, con trai một người thợ mỏ, Wilhelm và Caroline Catharina Weidenhof. 

Ông gia nhập Liên đoàn Cộng sản Thanh niên Đức (KJVD) năm 1926 và giới trẻ của Đảng Cộng sản Đức (KPD) KPD năm 1929. Từ 1928 tới 1930 ông làm thợ lợp nhà, nhưng không qua được bậc học nghề. Sau đó ông sang Moscow để học tại Trường Quốc tế Lenin và trong suốt cuộc đời còn lại luôn làm một chính trị gia chuyên nghiệp.

Ông quay trở lại Đức năm 1931 và bị bắt giữ năm 1935, hai năm sau khi phe Phát xít lên nắm quyền. Năm 1937, ông bị kết án mười năm tù vì các hoạt động cộng sản và tiếp tục ở tù cho tới khi Thế chiến II chấm dứt. 

Sau khi chiến tranh kết thúc, Honecker nối lại các hoạt động trong đảng dưới sự lãnh đạo của Walter Ulbricht. 

Năm 1946, Honecker trở thành một trong những thành viên đầu tiên của Đảng Thống nhất Xã hội chủ nghĩa Đức (Sozialistische Einheitspartei Deutschlands, SED), được hình thành sau sự hợp nhất của KPD và Đảng Dân chủ Xã hội (SPD) trong vùng chiếm đóng Xô viết của Đức.

Sau chiến thắng của SED trong cuộc bầu cử tháng 10 năm 1946, Honecker trở thành một những lãnh đạo đầu tiên của SED trong nghị viện Đông Đức thời hậu chiến, Đại hội Nhân dân Đức (Deutscher Volkskongress). 

Cộng hoà Dân chủ Đức được tuyên bố thành lập ngày 7 tháng 10 năm 1949 với việc thông qua hiến pháp mới, thành lập một hệ thống chính trị giống với hệ thống chính trị Liên xô. Năm 1958, ông đã là một thành viên đầy đủ của Bộ chính trị.

Năm 1961, Honecker, với tư cách thư ký Ủy ban Trung ương về các vấn đề an ninh, chịu trách nhiệm xây dựng Bức tường Berlin. 

Năm 1971, ông khởi động cuộc đấu tranh quyền lực với sự hỗ trợ của Liên xô, dẫn đến việc hay thế Walter Ulbricht trong chức vụ Thư ký thứ nhất Uỷ ban Trung ương SED và chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. 

Năm 1976, ông trở thành Chủ tịch Hội đồng Nhà nước (Vorsitzender des Staatsrats der DDR) và trên thực tế là lãnh đạo quốc gia.

Dưới thời Honecker, Cộng hoà Dân chủ Đức tiến hànhchương trình “chủ nghĩa xã hội tiêu dùng,” dẫn đến sự cải thiện đáng kể tiêu chuẩn sống vốn đã cao trong các nước thuộc khối Đông Âu. 

Ông đặt chú ý nhiều vào sự sẵn có của hàng tiêu dùng, và việc xây dựng nhà cửa được đẩy nhanh, với lời hứa của Honecker “đặt vấn đề nhà cửa như một vấn đề của xã hội.” 

Tuy thế, dù có tiêu chuẩn sống được cải thiện, sự bất đồng nội bộ không được khoan dung. Khoảng 125 công dân Đông Đức đã bị giết hại trong giai đoạn này khi tìm cách vượt biên trái phép vào Tây Đức hay Tây Berlin.

Về quan hệ nước ngoài, Honecker từ bỏ mục tiêu thống nhất nước Đức và chấp nhận một quan điểm “phòng thủ” của ý thức hệ Abgrenzung (phân chia ranh giới). Ông kết hợp sự trung thành với Liên xô cùng sự mềm dẻo với tình trạng giảm căng thẳng, đặc biệt trong quan hệ với Tây Đức. 

Tháng 9 năm 1987, ông trở thành lãnh đạo nhà nước đầu tiên của Đông Đức viếng thăm Tây Đức.

Cuối thập niên 1980, lãnh đạo Xô viết Mikhail Gorbachev đưa ra các cải cách “glasnost” và “perestroika”, để tự do hoá chủ nghĩa Cộng sản. Tuy nhiên, Honecker và chính phủ Đông Đức từ chối áp dụng các cải cách tương tự tại Cộng hoà Dân chủ Đức.

Theo thông báo Honecker đã nói với Gorbachev: “Chúng tôi đã tiến hành cải tổ của mình, chúng tôi chẳng có gì phải cơ cấu lại.” Ông còn cho rằng: “Bức Tường sẽ đứng trong 50 thậm chí 100 năm, nếu các lý do cho nó không được giải quyết.” (Berlin, 19 tháng 1 năm 1989) (Nguyên văn: “Die Mauer wird in 50 und auch in 100 Jahren noch bestehen bleiben, wenn die dazu vorhandenen Gründe noch nicht beseitigt sind”)

Tuy nhiên, khi phong trào cải cách lan rộng khắp Trung và Đông Âu, những cuộc tuần hành lớn chống chính phủ Đông Đức diễn ra, đáng chú ý nhất là cuộc tuần hành thứ 2 năm 1989 tại Leipzig. 

Đối mặt với tình trạng bất ổn dân sự, các đồng chí trong Bộ chính trị của Honecker kết luận cần phải thay thế ông. Honecker khi ấy đã già và ốm yếu bị buộc phải từ chức ngày 18 tháng 10 năm 1989, và được thay thế bởi Egon Krenz.
Bức tường Berlin ở Đức sau khi bị phá đổ năm 1989 đã không còn dấu vết. Công trình Đường mòn Bức tường Berlin đã hoàn thành để gợi lại một thời kỳ lịch sử của nước Đức. Dọc theo tuyến đường là những biển báo chỉ dẫn các di tích lịch sử.

Theo chính trị gia M.Cramer tại Berlin và cũng là người đưa ra ý tưởng xây dựng đường mòn:
Bức tường Berlin là một phần của quá khứ và chúng ta không thể xóa bỏ nó. Đó không chỉ là lời nhắc nhở về sự chia cắt mà còn là ký ức về chuyện bức tường đã bị phá đổ một cách hòa bình như thế nào”.
Viện bảo tàng Bức tường Berlin tại Checkpoint Charlie ngay tại biên giới nội địa Đức ngày trước được nhà sử học Rainer Hildebrandt khai trương trong năm 1963 và do Cộng đồng Ngày 13 tháng 8 chịu trách nhiệm vận hành. 

Viện bảo tàng là một trong những viện bảo tàng có du khách đến tham quan nhiều nhất của Berlin. Viện trưng bày hệ thống bảo vệ biên giới, tư liệu về các cuộc chạy trốn thành công và các phương tiện đã được sử dụng để bỏ trốn như khinh khí cầu, ô tô hay một tàu ngầm nhỏ. Giám đốc hiện nay là góa phụ của người sáng lập, bà Alexandra Hildebrandt.

Khu tưởng niệm Bức tường Berlin tại đường Bernau được hoàn thành vào cuối thập niên 1990 bao gồm đài tưởng niệm, Trung tâm tư liệu Bức tường Berlin và ngôi nhà thờ hòa giải.

Đài tưởng niệm xuất phát từ một cuộc thi đua do Liên bang tổ chức và được khánh thành vào ngày 13 tháng 8 năm 1998 sau nhiều cuộc tranh cãi gay gắt kéo dài. 

Trung tâm tư liệu do một hiệp hội vận hành và được khai trương vào ngày 9 tháng 11 năm 1999. 

Nhà thờ hòa giải của Cộng đồng hòa giải Tin Lành được khánh thành vào ngày 9 tháng 11 năm 2000 và được xây dựng trên nền móng của Nhà thờ hòa giải đã bị giật sập trong năm 1985.


Phần còn lại của bức tường


Các con số lấy từ Wikipedia, tài liệu được tổng hợp từ nhiều nguồn.