30 tháng 4 2010

Chiến tranh giải phóng Việt Nam: I-si-ca-oa Bu-ny-ô Phần XI

Đây là cuốn sách ảnh "Chiến tranh Giải phóng Việt Nam" của I-si-ca-oa Bu-ny-ô (Ishikawa Bunyo - The war of the liberation of Vietnam) xuất bản tại Nhật.

Cuốn sách này sẽ được trình bày theo đúng trình tự của nó.
Khổ ảnh: Chiều ngang tối đa 1600 pixel

Người sưu tầm tài liệu: Lonesome@ttvnol.com Cám ơn chú em NguyenQuangHuy_Korea đã săn được cuốn này và tặng anh (Lonesome) từ 2003

Cám ơn bác tuaans Dienthai@ttvnol.com đã dày công ngồi scan hết hơn 400 trang của cuốn Album này.

Chỉnh sửa: Excocet@ttvnol.com

TT Diệm cương quyết chống lại sự can thiệp trực tiếp của HK

TT Diệm cương quyết chống lại sự can thiệp trực tiếp của HK vì nó vi phạm chủ quyền quốc gia và còn giúp CS làm sống lại cuộc kháng chiến mà họ tự hào đã chiến đấu chống thực dân đế quốc giành độc lập
http://vietluanonline.com/130309/cacdoitongthonghoaky2.html
Vẫn là cờ vàng rửa mặt cho Diệm mà, mả san đùn theo đó hòng rửa tiếp ư, mách nhỏ nhé, kiếm tờ
tạp chí SàiGòn Nhỏ, số 1265, ngày 22 tháng 10 năm 2010, Ấn bản Orange County, nơi trang A1​, có bài "Hồng Y Francis Spellman và chiến tranh Việt Nam" của Trần Thị Vĩnh Tường, có viết:




đấy, rửa mặt đấy, tác giả bài báo bôi đậm chữ nào?
:P
Này thì rửa mặt cho Diệm: Ông Howard Jones, giáo sư sử tại Ðại học Alabama, nghỉ dạy một năm để nghiên cứu những nguồn tài liệu từ thư viện John F. Kennedy, thư viện Lyndon B. Johnson, văn khố quốc gia, văn khố của Hội đồng An ninh Quốc gia; những dữ kiện lịch sử ghi băng của những nhân vật từng tham gia chính quyền Kennedy như Dean Rusk, Walt W. Rostow, Robert McNamara, Edward G. Lansdale, Maxwell D. Taylor, Henry Cabot Lodge, Frederick E. Nolting để soạn ra tác phẩm Death of a Generation: How the assassinations of Diem and JFK prolonged the Vietnam War của Howard Jones.Nxb Ðại học Oxford xuất bản tại London 2003.[​IMG]

Trong cuốn sách Jones đưa ra hình ảnh Kennedy là người bị ảnh hưởng bởi chiến tranh lạnh, muốn bảo vệ thế giới khỏi hiểm họa cộng sản, nhưng không muốn đổ quân chiến đấu vào Nam Việt Nam. Kennedy coi việc chiến đấu chống c ộng sản, bảo vệ độc lập là việc của người miền Nam Việt Nam. Trả lời phóng viên báo chí trong ngày 2/9/1963 Kennedy nói: “Chúng ta có thể giúp họ, cung cấp dụng cụ, chúng ta có thể gửi những cố vấn, nhưng họ, dân tộc Việt Nam, phải tự chiến đấu để chiến thắng c ộng sản.”

Cuộc chiến chống c ộng sản lại bị báo chí Mỹ đưa tin với giọng điệu rằng sĩ quan và lính Việt Nam Cộng hòa không chịu chiến đấu. Ðiển hình là vụ Ấp Bắc xảy ra vào đầu năm 1963 đã được những phóng viên trẻ như Neil Sheehan, David Halberstam, Peter Arnett gửi tin cho các báo lớn của Mỹ loan tải, cùng với những lời bình luận là quân đội Việt Nam C ộng hòa không muốn bảo vệ đất nước của họ.

Jones viết rằng nếu Kennedy và Diệm còn sống thì Hoa Kỳ đã rút quân và cuộc diện chiến tranh Việt Nam đã khác.

Ngày 29/9/1961 Diệm gặp Đô Đốc Harry D. Felt, Đại Sư Nolting, đề nghị ký một hiệp ước phòng thủ chung với Mỹ. Việc ký thỏa hiệp phòng thủ chung với Mỹ thì đương nhiên là quân đội Mỹ phải trú đóng ở trên lãnh thổ Nam Việt Nam giống như quân đội Mỹ đóng ở Hàn Quốc. Đã cương quyết chống việc quân đội Mỹ vào Việt Nam, từ chối lời cầu xin sử dụng hải cảng Cam Ranh của Mỹ, thì TẠI SAO lại còn mời Mỹ đề nghị ký một hiệp ước phòng thủ chung để làm gì?

Jones viết rằng Diệm đã hỏi ý kiến Lansdale (trong chuyến đi nam VN lượng định tình hình của Taylor và Lansdale vào tháng 10/1961) rằng có nên yêu cầu Hoa Kỳ gửi quân tham chiến không? Lansdale hỏi lại là tình hình quân sự bết bát lắm chăng? Ông Diệm trả lời: không tệ và có thể tự lo được. Lansdale nói thế thì không nên yêu cầu Hoa Kỳ gửi quân chiến đấu vì chính Lansdale cũng không muốn đổ quân vào tham chiến. Trong khi ông Diệm bàn luận với Lansdale thì cố vấn Ngô Ðình Nhu cũng có mặt và hay xía vào. Lansdale nhận xét ông Diệm đã không còn phong thái tự tin như cách đây một năm, sau lần đảo chính hụt. Ông Diệm đã bị ông Nhu lấn áp quyền hành. Sau đó, bất chấp lời khuyên của Lansdale khi gặp Taylor, ông Diệm đã đề nghị một hiệp ước hỗ tương phòng thủ, gia tăng quân số Việt Nam Cộng Hòa và không yểm của Mỹ.

Trở về, bản báo cáo của Taylor về tình hình chống c ộng không khả quan và một chính quyền đang xa rời dân, đã khiến một số nhà hoạch định chính sách trong Bạch Cung và bộ ngoại giao yêu cầu sứ quán Mỹ ở Sài gòn lập danh sách những người có thể thay thế ông Diệm, trong đó có Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ và bộ trưởng Nguyễn Ðình Thuần. Tài liệu cũng nhắc đến mối quan hệ giữa tướng Dương Văn Minh và ông Thơ đã từng bị Pháp bắt giam. Lá bài Dương Văn Minh lãnh đạo đảo chính thành công và đưa Nguyễn Ngọc Thơ lên thay đã bắt đầu được nhen nhúm thành hình từ đó.

Nhưng hoạch định một vụ đảo chính – và để thành công – là một công việc đòi hỏi nhiều mưu kế. Bạch Cung chỉ muốn làm giấu tay, trong khi các tướng lãnh Việt Nam C ộng hòa lại chỉ chờ Mỹ “bật đèn xanh.” Phải tốn một thời gian mới đưa đến vụ đàn áp phật giáo ở Huế vào tháng 5/1963 trong đó có sự việc hai tiếng nổ lớn xảy ra khi phật tử biểu tình trước đài phát thanh đòi bỏ Dụ số 10 về việc treo cờ tôn giáo. Jones ghi nhận dư luận về hai tiếng nổ đó có thể là do Việt C ộng trà trộn, hoặc phe chính quyền gài vào, hay do CIA tạo ra để bắt đầu tiến trình đưa ông Diệm xuống. Vụ phật giáo xuống đường, theo Jones, đã làm hoãn lại kế hoạch đã được Kennedy chấp thuận vào đầu tháng 5/1963 là rút 1.000 cố vấn về nước trước cuối năm 1963.

Ngay sau khi có những vụ tấn công vào chùa, sáng ngày 26/8/1963, đài VOA truyền đi bản tin động trời, nội dung: “theo các quan chức ở Hoa Thịnh Ðốn cho biết những người lãnh đạo quân đội Việt Nam C ộng hoà không – lặp lại không – có trách nhiệm trong những vụ tấn công vào chùa chiền.” Ðài cũng loan tin Bạch Cung có thể cắt giảm nhiều viện trợ nếu ông Diệm không loại bỏ những người cầm đầu cơ quan mật vụ – ám chỉ ông Nhu – dù chính quyền Mỹ chưa chính thức lên tiếng. Ðài VOA sau đó cải chính, nhưng ông Nhu coi đó là dấu hiệu người Mỹ muốn loại bỏ ông.

Jones đưa ra dẫn chứng các tài liệu cho thấy Kennedy là người đã chấp thuận kế hoạch xóa bỏ chế độ Ngô Ðình Diệm. Lúc đầu Hoa Kỳ còn tìm cách che giấu việc nhúng tay vào vụ đảo chính bằng cách không thừa nhận chính quyền mới cho đến cả tuần lễ sau. Death of a Generation đã chứng minh Bạch Cung chủ động trong việc loại bỏ ông Diệm, với hy vọng một chính quyền khác được lòng dân và có khả năng chống c ộng hơn để Hoa Kỳ có thể rút quân, như Kennedy dự định.

Cuốn sách ngừng lại ở chỗ chế độ Ngô Ðình Diệm sụp đổ và không bàn đến nguyên nhân đưa đến cái chết của Kennedy ba tuần sau đó. Theo Jones thì việc Hoa Kỳ quyết định loại bỏ ông Diệm, cùng với cái chết của Kennedy vào ba tuần sau đó đã làm hỏng việc rút quân Mỹ khỏi Việt Nam như Kennedy đã có kế hoạch. Jones cho đó là sự khai tử một thế hệ thanh niên Mỹ vì sau hai cái chết trên,gần 60.000 thanh niên Mỹ, cùng với vô số thanh niên Việt Nam phải bỏ mình vì cuộc chiến leo thang.

Khi Johnson lên thay sau khi Kennedy chết, Hoa Kỳ liền đảo ngược chính sách đối với Việt Nam của Kennedy, đưa thêm quân tácchiến qua Việt Nam tăng dần lên đến 550.000 vào đầu năm 1968.


Theo cuốn phim "Chiến tranh Việt Nam - nếu J.F.Kennedy còn sống" Kennedy đã chịu nhiều sức ép mạnh mẽ và liên tục nhằm đẩy nước Mỹ vào cuộc chiến hơn bất kì tổng thống nào trước đó trong vòng 1.000 ngày cầm quyền đầu tiên. Tuy nhiên, trong sáu lần Kennedy bị đẩy vào việc phải ra quyết định cuối cùng, cả sáu lần ông đều tránh xa khỏi quyết định tham chiến.

Đối lập với lập luận của giới rửa mặt cho Diệm rằng những hành động của Kennedy là nhất quán đối với cuộc chiến tranh Việt Nam khi chính Kennedy đã tăng cường sự có mặt của các cố vấn quân sự Hoa Kì trong quân đội Việt Nam C ộng hòa lên con số 16 ngàn vào thời điểm cuối năm 1963, trước khi ông bị ám sát. và vụ lật đổ ông Diệm sở dĩ xảy ra là vì ông Diệm "chống quân Mỹ vào VN, tìm cách bắt tay với CSBV và vì ông Diệm là người 'yêu nước'" (sic). Họ cho rằng chính Kennedy đã ra quyết định tăng số lượng cố vấn quân sự Mỹ lên tới mức kỉ lục 16 ngàn người tính tới cuối năm 1963, Kennedy cũng là người phê chuẩn các cuộc đột kích vào Bắc Việt Nam, ngầm ủng hộ tướng tình báo Henry Cabot Lodge lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Hơn nữa, kế hoạch dần rút quân khỏi Nam Việt Nam của McNamara và Kennedy, trên thực tế phụ thuộc vào mức độ gánh vác quyền kiểm soát tình hình của quân đội Việt Nam C ộng Hòa - điều mà họ chưa bao giờ thực hiện được.

Koji Masutani, đạo diễn bộ phim được sự hỗ trợ của hai giáo sư tại Đại học Brown, một trong số đó là James G. Blight, người nghiên cứu sâu về cuộc chiến Việt Nam và đã có những cuốn sách bàn về vấn đề này. Bản thân giáo sư Blight cũng là đồng chủ biên của một cuốn sách khác có tựa đề trùng với tên bộ phim của Masutani: ‘Vietnam if Kennedy had lived: Virtual JFK’ (Chiến tranh Việt Nam - nếu Kennedy còn sống).

Lật lại những hồ sơ và nghiên cứu về vai trò của Tổng thống J.F.Kennedy đối với cuộc chiến Việt Nam, Masutani viện dẫn những trao đổi riêng của Kennedy với các cộng sự thân tín, cho rằng Kennedy đã có kế hoạch rút dần quân đội Mỹ ra khỏi Nam Việt Nam và tiến tới triệt thoái toàn bộ. Theo đó, Kennedy từng nói với Bộ trưởng Quốc phòng McNamara về kế hoạch rút quân hoàn toàn khỏi Nam Việt Nam nếu ông tái đắc cử trong năm 1964.

McNamara, Bộ trưởng Quốc phòng của Kennedy sau chuyến đi quan sát tình hình Việt Nam lần đầu vào tháng Tư 1962, tuyên bố cuộc chiến Việt Nam có thể giải quyết thắng lợi từ ba tới bốn năm. McNamara không đứng về phe chủ trương đảo chính loại bỏ Ngô Đình Diệm; ông đồng ý cần áp lực ông Diệm để loại bỏ vai trò của ông bà Ngô Đình Nhu. McNamara cũng tỏ ý hối tiếc là Hoa Kỳ đã không đoái hoài đến đề nghị trung lập toàn cõi Đông Dương theo đề nghị của Tướng Charles de Gaulle.

Sau chuyến đi Việt Nam quan sát tình hình vào đầu tháng 10/1963 cùng với Tướng Taylor, McNamara đã đề nghị (trong an ninh tình báo, những đề nghị mật trong giới lãnh đạo cao cấp loại này được coi như là những ý định thật của một chính phủ) :

“Thành lập một chương trình để huấn luyện người VN đến cuối năm 1965 có thể thay thế quân nhân Mỹ trong các nhiệm vụ thiết yếu. Vào thời điểm đó, một số lớn nhân viên Mỹ có thể được rút về nước.” . . .

Theo chương trình huấn luyện (quân đội) VN để từ từ thay thế (quân đội Mỹ) trong các nhiệm vụ quân sự, Bộ Quốc Phòng nên tuyên bố sớm kế hoạch đang được chuẩn bị để rút 1.000 quân Mỹ vào cuối năm 1963.”

và được Kennedy chấp thuận, kế hoạch rút dần lực lượng quân sự Mỹ khỏi Việt Nam dưới hình thức tái triển khai lực lượng. Phòng Báo Chí Tòa Bạch ốc ngày 2/10/1963 ra bản tin: “Cuối cùng tổng thống đồng ý, và Tham vụ Báo chí Pierre Salinger đã đưa ra bản thông báo sau buổi họp. Bản thông báo này có đoạn như sau : Bộ trưởng McNamara và Tướng Taylor. . . báo cáo rằng chương trình huấn luyện của Mỹ tại VN sẽ tiến triển đến mức 1.000 quân nhân Mỹ đang đóng tại Nam VN sẽ có thể được rút về vào cuối năm nay.”

Theo McNamara, vụ Diệm bị giết đã làm Tổng thống Kennedy bàng hoàng, nhưng điều kinh khủng hơn là khoảng trống để lại sau cuộc đảo chính. Trên thực tế, đã có khoảng 1.000 chuyên gia quân sự được rút khỏi Việt Nam cho tới trước khi Kennedy bị ám sát vào ngày 22/11/1963.

Về sau, McNamara viết trong hồi ký: “Dean Rusk và các cố vấn của ông ta cũng đi đến kết luận như vậy. Ngày 11/11 (năm 1961) ông ta và tôi, sau khi suy nghĩ và thảo luận thêm, cùng gửi một văn thư liên bộ (Ngoại Giao và Quốc Phòng) cho Tổng thống để can ngăn việc gửi quân chiến đấu sang VN theo đề nghị của Walt (Rostow) và Tướng Max (well Taylor). . . . Chiều hôm ấy, TT Kennedy đã đem cả hai văn thư đó ra giữa buổi họp tại Tòa Bạch ốc. Ông nói rõ rằng ông không muốn cam kết một cách vô điều kiện sẽ giữ cho miền Nam VN khỏi bị sụp đổ và tuyệt đối không chấp nhận việc gửi quân tác chiến Mỹ sang VN.” [Tr. 39]


Giáo sư James Blight với cuốn sách xuất bản trước đây của ông ‘Bức màn của chiến tranh: 11 bài học từ cuộc đời của Robert S. McNamara’. Những tư tưởng này sau đó được phát triển và làm rõ thêm với cuốn sách ‘JFK và Việt Nam’ của John Newman và nhất là cuốn sách ‘Vietnam if Kennedy had lived: Virtual JFK’ cũng chia xẻ nhận định với cuốn phim tài liệu ‘Chiến tranh Việt Nam - nếu Kennedy còn sống’.

Và thêm nữa, từ năm 1961, Diệm đã cầu viện quân ngoại bang (Mỹ và Tàu Tưởng) vào VN, “The Pentagon Papers” (Ed. Bantam Books Inc., 1971) lại cho thấy chính ông Diệm đã có ý đồ... xin thêm quân tác chiến Mỹ và Tàu vào VN, từ năm 1961!

“Điện văn của Tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn gửi bộ Ngoại Giao ngày 13 tháng 10, 1961 về những yêu cầu của ông Nguyễn Đình Thuần, Bộ trưởng Quốc Phòng của Nam VN...

Trong buổi họp ngày 13/10/1961 Thuần đã yêu cầu :

1. Gửi thêm các phi đoàn khu trục AD6...

2. Gửi phi công dân sự Mỹ...

3. Gửi quân Mỹ tác chiến hoặc quân Mỹ “cố vấn tác chiến” cho quân VNCH. Một phần quân số này sẽ đóng gần vĩ tuyến 17 để quân VNCH được rảnh tay chống quân du kích ở miền cao nguyên ...

4. Xin được biết phản ứng của Mỹ đối với đề nghị (của ông Diệm) xin Trung Hoa Quốc gia gửi một sư đoàn quân tác chiến vào khu vực hành quân ở vùng Tây Nam ....

Chống cái khỉ gì mà xin từ quân Mỹ tới quân Tàu Tưởng vào vậy hả ? Trích 1 đoạn trong cái link  http://vietluanonline.com/130309/cacdoitongthonghoaky2.html dùn nè:

Cuốn sách ‘Vietnam if Kennedy had lived: Virtual JFK’của Giáo sư James Blight và trong phim tài liệu cùng tên đã nói ở trên lập luận Tổng thống Kennedy sẽ không đưa quân đội Mỹ vào cuộc chiến ở Việt Nam.
Gia tài mà Kennedy đã thừa hưởng từ Tổng thống Dwight D. Eisenhower là sáu cuộc khủng hoảng (2 ở Cuba, 2 ở Việt Nam, 1 ở Lào và 1 ở Berlin). Kennedy đã nhận ra năm đầu của nhiệm kỳ của ông, năm 1961, là năm của địa ngục. Vào tháng Ba, các cố vấn của ông đòi dùng vũ khí hạt nhân để chống lại Pathet Lào. Đến tháng Tư, ông bị mất mặt vì sự thất bại ở vịnh Con Heo và làm cho các cố vấn của ông nổi điên khi từ chối khuyến cáo của họ là đem Thủy quân Lục chiến Mỹ đổ bộ lên Cuba để lật đổ chế độ của Fidel Castro.
Giữa tháng Tám và Chín, các cố vấn của ông đề nghị dùng vũ khí hạt nhân để chống Liên Xô ở Berlin và cũng để phá sập bức tường vừa được bắt đầu xây lên để ngăn đôi thành phố này. Và trong tháng Mười Một, Kennedy chống lại lời đề nghị của tất cả các cố vấn trong toan tính Mỹ hoá cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Kennedy đã nói KHÔNG với chiến tranh trong tất cả các cuộc khủng hoảng đó. Bây giờ thì chúng ta biết, sau hơn hai mươi năm nghiên cứu, TT Kennedy đã có lý khi nói “không” như vậy. Chắc chắn là nếu Kennedy sử dụng quân đội Mỹ vào một trong sáu cuộc khủng hoảng đó thì kết qủa chỉ là tai họa. Mỗi cuộc khủng hoảng trong số đó, kẻ thù của nước Mỹ kiên trì với lý tưởng của họ hơn những gì mà các cố vấn của Kennedy đã dự đoán. Điều này cũng đúng như trong trường hợp của cuộc khủng hoảng tên lửa trong tháng 10 năm 1962 ở Cuba. Nếu Kennedy quyết định tấn công và xâm lăng Cuba theo lời các cố vấn chắc chắn sẽ đưa đến một cuộc trả đũa hạt nhân của Liên Xô với những hậu qủa tai hại không thể lường được.
Việt Nam là một trường hợp tiêu biểu rõ ràng về vấn đề bản tính của Kennedy đã ảnh hưởng như thế nào trên sự kiện nước Mỹ đã không đổ quân vào Việt Nam trong nhiệm kỳ của ông. Hiện nay đã có đủ tài liệu để đối chiếu một cách vô tư những quyết định liên hệ đến Việt Nam của hai ông Tổng thống Kennedy và Johnson.
Đây là một trừơng hợp vẹn hiếm có trong lịch sử đối ngoại của nước Mỹ. Tự cảm thấy thiếu kinh nghiệm về đối ngoại hoặc có mặc cảm thiếu tự tin, Johnson đã giữ nguyên toàn bộ những nhân viên cao cấp về đối ngoại của Kennedy lại làm việc trong nội các của ông từ cuối năm 1963. Các hồ sơ mật cho biết chỉ vài giờ sau khi nhậm chức Tổng thống ngày 22 tháng 11 năm 1963, Johnson đã bị áp lực của các cố vấn này để đem nước Mỹ vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
Những cố vấn này đã dùng những lý do mà họ đã dùng với Kennedy: "Chúng ta không thể bỏ rơi đồng minh VNCH vào tay C ộng sản. Nếu chúng ta bỏ rơi VNCH, những lời hứa của chúng ta với các đồng minh khác sẽ trở nên vô giá trị, một con cờ “domino” sẽ rơi vào tay C ộng sản, và nhiệm kỳ của Tổng thống Johnson sẽ bị lịch sử đánh giá là một thất bại."
Bộ trưởng McNamara nhớ lại, để trả lời cho những lý luận này, TT Johnson đã trả lời: “OK, Hãy thắng cuộc chiến tranh này”. Vậy là cùng một nhóm cố vấn, cùng một cuộc chiến tranh, chỉ có khác Tổng thống mà thôi, cuộc chiến ở Việt Nam là của TT Johnson, không phải của TT Kennedy. Sự lãnh đạo của một Tổng thống là yếu tố quyết định quốc gia sẽ tham chiến hay không tham chiến.

Trong cuốn sách JFK và Việt Nam, John M Newman, một cựu thiếu tá lục quân, chuyên nghiên cứu các tài liệu mật, cho rằng Tổng thống Kennedy muốn tái đắc cử năm 1964, sau đó rút khỏi Việt Nam. Ông đã nhiều lần cưỡng lại đề xuất của những người dưới quyền muốn đưa quân Mỹ tới Lào năm 1961, và Việt Nam sau đó (đã đề cập trang trước).

Ngày 2/10/1963, Kennedy nhận bản báo cáo về chuyến đi Sài Gòn của bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara và chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Maxwell Taylor. Đề xuất được đưa ra trong bản báo cáo là Mỹ rút quân từng phần, đến cuối năm 1965 thì rút toàn bộ và Bộ Quốc phòng nên thông báo trong tương lai rất gần kế hoạch rút 1.000 trong số khoảng 16.000 người Mỹ đang ở Việt Nam trong năm 1963.

Ngày 5/10, Kennedy đưa ra quyết định chính thức. Ông nói rằng việc rút 1.000 cố vấn Mỹ không nên được đưa ra chính thức với Ngô Đình Diệm. Thay vào đó, hoạt động này chỉ được nên tiến hành dưới hình thức một động thái thông thường chuyển người ở những khu vực không cần tới.
Roger Hilsman, trợ lý ngoại trưởng về Viễn Đông dưới thời Kennedy, bình luận ban đầu tổng thống ủng hộ Ngô Đình Diệm - một người theo Công giáo như ông. Tuy nhiên, ông bắt đầu thay đổi quan điểm, sau thất bại ở Vịnh con Lợn (Cuba). Kennedy cho rằng là Việt Nam có thể là một bãi lầy. Tổng thống quyết tâm đây sẽ không phải là cuộc chiến của người Mỹ, ông sẽ không ném bom miền Bắc và không gửi quân.

Sau đó, xảy ra biến cố Phật giáo mùa xuân năm 1963. Kennedy tin Ngô Đình Diệm không có cơ hội chiến thắng và Mỹ phải rút người. Vì vậy, ông tác động lên McNamara trong việc triển khai kế hoạch đưa toàn bộ lực lượng Mỹ rời khỏi Việt Nam. Những người duy nhất ở lại sẽ là lính đánh thuỷ đánh bộ để bảo vệ sứ quán. Theo Hilsman, trước khi Kennedy bị ám sát, đã có khoảng 1.000 người được rút khỏi Viẹt Nam.

Ngày 11/10/1963, Nhà Trắng đưa ra bản nghi nhớ thoả thuận an ninh quốc gia (NSAM) 263: “Tổng thống phê chuẩn các đề xuất quân sự, nhưng chỉ đạo rằng không có thông báo chính thức nào được đưa ra về kế hoạch rút 1.000 người Mỹ trong năm 1963". Nói cách khác, đề xuất của McNamara được Kennedy bí mật phê chuẩn và ra lệnh tiến hành, cũng bí mật.

Ngày 1/11, xảy ra cuộc đảo chính ở Sài Gòn và vụ ám sát Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Theo lời nhà sử học James K. Galbraith, từ tháng 8/1963, một nhóm những người cấp dưới ở Nhà Trắng (thứ trưởng Ngoại giao Averell Harriman, phụ tá ngoại trưởng phụ trách về Viễn Đông Roger Hilsman, và cố vấn Nhà Trắng Michael Forrestal), trong khi các quan chức cao cấp nhất ở Washington vắng mặt dịp cuối tuần, đã vạch kế hoạch đảo chính ở Sài Gòn. Nhà Trắng sau đó bị đặt vào thế đã rồi. Vì vậy, họ tỏ ra bị động và không bảo vệ được Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Thực ra, đối với Washington, không có lựa chọn nào khác ngoài đảo chính. Như vị đại sứ Pháp ở Sài Gòn lúc đó giải thích: “Bất kể chính phủ nào ngoài chính quyền của 2 ông Diệm - Nhu cũng sẽ phải phụ thuộc vào Mỹ nhiều hơn và nghe lời họ trong mọi việc”.

Tuy nhiên, bản thân ông Roger Hilsman lại kể về vụ đảo chính: "Đại sứ Frederick Nolting sắp thôi chức và Henry Cabot Lodge sắp vào thay thế. 3 chúng tôi gặp nhau ở Hawaii. Lúc bấy giờ có tin đồn là hai anh em Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Diệm sắp tấn công các ngôi chùa. Trước đó, những Phật tử biểu tình và có sự kiện họ treo cờ Phật, còn Ngô Đình Diệm ra lệnh không được treo cờ nào khác ngoài cờ của miền Nam Việt Nam. Các binh lính nổ súng, làm một số người thiệt mạng. Nolting nói với tổng thống Diệm rằng nếu họ đánh vào các ngôi chùa, Mỹ sẽ phải lên án họ trong một tuyên bố công khai (tuyên bố của VOA trong trang trước).

Khi Nolting rời khỏi Việt Nam, thì xảy ra vụ tấn công các chùa chiền. 3 chúng tôi đứng nói chuyện với nhau và Nolting cứ nhắc đi nhắc lại: "Ông ấy đã hứa với tôi, ông ấy đã hứa với tôi". Và đó là hồi tháng 8. Ngày hôm sau, tôi trở lại Washington. Lodge đã đến Việt Nam và gửi một bức điện tín nói rằng các tướng Việt Nam đến gặp ông ấy và nói họ có thông tin Ngô Đình Diệm sắp ra lệnh bắt và xử tử họ, và muốn được Mỹ ủng hộ nếu phải đảo chính để tự vệ. Bởi vậy, ngày 24/8, chúng tôi viết một bức điện...

Thực sự thì khi đó McNamara đang không ở trong thành phố, ngoại trưởng Dean Rusk ở New York, Kennedy ở Hyannis Port. Chúng tôi không gọi được cho McNamara, nhưng liên lạc được với Kennedy và Rusk. Rusk đưa thêm một đoạn văn trong đó nói rằng nếu anh em Diệm - Nhu thành công ở Sài Gòn, chúng ta sẽ cố gắng ủng hộ cuộc chiến thông qua cảng Hawaii. Nhưng bức điện bị rút lại còn một câu, làm thay đổi nội dung của nó, vì nó khiến chúng ta can thiệp trực tiếp hơn vào cuộc chiến: Hãy tới gặp Diệm và bảo ông ấy rằng chúng tôi cho rằng em trai của ông ấy, ông Nhu, nên trở thành đại sứ ở Paris, để ông ấy ra khỏi đất nước, vì ông ấy đang gây rắc rối... Lodge trả lời: Tôi sẽ không làm gì cho đến khi tôi nhận được thêm thông tin của các ông, bởi vì nếu tôi dến gặp Diệm và làm như các ông dặn, đề nghị ông ấy gạt em trai của mình, ông ấy sẽ ngay lập tức bắt các tướng lĩnh và xử tử họ.

Vậy là sáng thứ hai, có một cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia. John McCone, đứng đầu CIA, và McNamara đều không ở trong thành phố, khi sự việc trên xảy ra. Những người phó của họ đã ký bức điện. Vì vậy, họ rất tức giận. Kennedy bực mình vì sự chia rẽ trong chính phủ. Ông ấy nói: Thôi được rồi, Lodge chưa thực hiện những lời chỉ dẫn trên bức điện, vì vậy chúng ta hiện có 3 lựa chọn. Chúng ta có thể làm theo bức điện, chúng ta có thể rút lại nó làm như chưa từng có chuyện gì xảy ra cả, hoặc chúng ta có thể điều chỉnh lại nó, như Lodge đã đề xuất, nghĩa là để ông ấy làm mọi việc ngoại trừ đến gặp Ngô Đình Diệm.

Về sau, chúng tôi mới biết được có một vài tướng đã từ chối tham gia đảo chính, vì vậy không có gì xảy ra. Cuộc đảo chính sau đó là một cuộc đảo chính khác, với những người khác, chỉ có một số tướng vẫn giữ nguyên. Ngày 1/11, họ không nói gì với chính phủ Mỹ, cũng không tham khảo ý kiến gì với chúng tôi cả. Lần đầu tiên chúng tôi nghe về vụ việc là qua một sĩ quan liên lạc thuộc CIA. Vì vậy, bức điện ngày 24/8 và cuộc đảo chính ngày 1/11 không hề liên quan đến nhau".


Tại một cuộc họp báo ngày 12/11, Kennedy công khai tuyên bố lại mục đích đối với Việt Nam là thúc đẩy cuộc chiến và đưa người Mỹ ra khỏi nơi này.

Hội nghị Honolulu giữa các quan chức quân sự và nội các ngày 20-21/11 được triệu tập nhằm xem xét lại các kế hoạch sau vụ đảo chính Sài Gòn. Một kế hoạch sơ bộ, sau này được thực hiện dưới cái tên OPLAN 34, được chuẩn bị. Kế hoạch này kêu gọi tăng cường các cuộc tấn công bất ngờ chống quân giải phóng, sử dụng lính biệt kích của quân đội Việt Nam Cộng hoà dưới sự kiểm soát của người Mỹ.

4 ngày sau khi Kennedy bị ám sát, Johnson thông báo mục đích của chính phủ Mỹ vẫn giữ nguyên như thời Kennedy: giúp chính quyền Việt Nam Cộng hoà đánh Cộng sản thông qua hoạt động hỗ trợ huấn luyện và không dùng lực lượng quân sự Mỹ một cách công khai. Nhưng đồng thời, tân tổng thống cũng chấp thuận việc tăng cường các hoạt động bí mật chống miền Bắc Việt Nam. Tiếp theo đó, xảy ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ dẫn tới việc Mỹ triển khai các lực lượng chủ lực.

Theo các tài liệu của thư viện Lyndon Baines Johnson, tổng thống Johnson biết chiến tranh Việt Nam là một cạm bẫy và lo sợ về một thảm kịch. Về phương diện này, Johnson và Kennedy có điểm giống nhau. Tuy nhiên, Johnson không có được sự quyết tâm của Kennedy. Ông chấp nhận đề xuất tiến hành các hoạt động bí mật, và nhượng bộ trước đề xuất của giới quân sự ngày 24/11.

Để tiếp tục chính sách rút quân của Kennedy, sau khi cố tổng thống qua đời, sẽ là việc khó khăn, bởi vì công chúng Mỹ còn chưa biết là cuộc chiến đang theo chiều hướng bất lợi cho phía Mỹ. Họ cũng chưa biết là Kennedy đã ra lệnh rút quân. Đối với Johnson, duy trì một ảo tưởng về sự kế tục, vào thời điểm dân chúng còn đang bàng hoàng về vụ ám sát, là mục đích chính trị của ông lúc bấy giờ.

Chôn cái huyền thoại TT Diệm “chết vì chống Mỹ” đi nhá.

29 tháng 4 2010

BẢY NHU: ÁC QUỶ CHIẾN TRANH HIỆN ĐANG CÒN ĂN CHAY NIỆM PHẬT TẠI PHÚ QUỐC


dinhphdc
 wrote on Dec 24, '11, edited on Dec 24, '11

Nhân dịp 30/4 vĩ đại, có người đặt hàng viết về tên cai ngục tàn ác nhất trong lịch sử Việt Nam!


Cái con Phạm Thị Thảo (Thao cũng được) Giang là con nào ấy nhỉ? Bài này nó có sử dụng một số tư liệu của thằng Lãng Quân, đề nghị bí mật smile

Trò chuyện với tên cai ngục tàn ác nhất trong lịch sử Việt Nam!

Phóng sự dài kỳ của Phạm Thị Thao Giang

Tôi đã kỳ công ra với đảo Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang), tìm gặp bằng mọi giá, đối thoại và lén chụp ảnh viên cai ngục khét tiếng đã được sử sách, báo chí, thông tin bảo tàng và các nguồn tư liệu - nhân chứng sống hãi hùng nhắc đến quá nhiều ấy. Ông ta năm nay 83 tuổi, tên là Trần Nhu (thường gọi Bảy Nhu), sống ẩn dật trên một quả đồi hoang vắng, xanh mải miết toàn cây bạch đàn, hằng ngày ăn chay niệm Phật và nen nét với nỗi ám ảnh tội lỗi. Ông ta biết rõ mình là quỷ đội lốt người, đã hành hạ, tàn sát bao nhiêu người trẻ ưu tú của non sông Việt, nên ngay cả lúc gần đất xa trời này, Bảy Nhu vẫn cứ đeo đẳng nỗi hốt hoảng vì sợ bị “ai đó” trả thù. Ông Nhu tuyệt đối cấm chụp ảnh mình, cực kỳ hạn chế tiếp xúc với... đồng loại. Quả là, không ai ngờ viên cai ngục kỳ lạ, dị mọ, quái đản cổ đeo cả một ống bơ toàn răng tù nhân đó vẫn còn đang... sống.

 Viên cai ngục Bảy Nhu ở tuổi 83 tại đảo Phú Quốc

Có chi tiết thế này: từ thế giới “địa ngục trần gian” ở ngoài hòn đảo “thiên đường du lịch” trở về, tôi trò tiếp tục chuyện người tù cộng sản ông Vũ Minh Tằng (đang sống tại xã Vĩnh Hảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Ông Tằng mang đến “Bảo tàng Các chiến sỹ cách mạng bị địch bắt tù đày” do ông Lâm Văn Bảng xây dựng (ở xã Nam Triều, huyện Phú Xuyên, TP Hà Nội) tặng... 9 cái răng của mình.

Ông Tằng đã “phục kích” nhiều ngày, bới các đống phân của mình trong chuồng cọp biệt giam, để tìm và giữ bọc răng đó suốt hơn 30 năm ròng, sau khi tên cai ngục kia đánh gẫy của ông, bắt ông nuốt vào bụng mình toàn răng và máu... Nghe tôi kể Bảy Nhu còn sống, tôi khoe ra những chụp ảnh và cả tiếng đồng hồ băng ghi âm từ đảo Phú Quốc, ông Tằng (71 tuổi) nghiến những chiếc răng già hổng hoác còn lại mà khóc: “Cái thằng ấy nó chưa chết ư? Ối trời ơi, nó vẫn còn sống thật không?”, rồi ông đau đớn hồi tưởng lại... 6 năm trời chết đi sống lại, bị tra tấn tàn độc bởi một bầy ác quỷ trong nhà tù. Ông Tằng lại thở hắt ra: “Nghĩ cho chùng, Nhà nước mình để cho nó (Bảy Nhu) sống, là rất nhân đạo, cũng lại hoá ra rất tốt, nếu nó không còn sống, thì ngoài hàng nghìn người đã chết thì chưa kể, còn hàng vạn người bị tra tấn bằng các trò của Quỷ Sa-tăng như tôi đây, có đem kể lại chuyện bị hành hạ, bị bắn giết, vứt xuống biển hết sức kinh dị cho con cháu nghe, chửa chắc đã có ai tin. Chuyện thật mà nó cứ xa xôi như ở cõi khác, ở kiếp khác ấy. Hoá ra, cái giống quỷ như thằng Nhu, lại vẫn có ích cho... Đời”.


“Gậy biệt ly”, “Vồ sầu đời”, và cái “hữu ích” của việc Bảy Nhu còn sống !

“Bảy Nhu - viên cai ngục tàn ác nhất trong lịch sử Việt Nam!” - viết như vậy, tôi biết, sẽ có người cho tôi là hồ đồ, hoặc hơi quá... xúc động , khi gọi gọi Bảy Nhu như thế. Song, độc giả Tuổi trẻ thủ đô cứ cho phép tôi tạm gọi như vậy, vì những lý do rất đáng xem xét sau đây: bởi, “đào bới” suốt sử sách - tư liệu của ngàn năm lịch sử, từ thời nguyên thuỷ, thời phong kiến, thời bị ách xâm lược của cú diều Thực dân, Đế quốc, tôi chưa bao giờ nghe, đọc, xem được một có tù ngục nào dã man với viên cai ngục bằng xương bằng thịt mà lại kinh thiên động địa như cặp bài trùng khét tiếng: thượng sỹ Bảy Nhu - nhà tù Phú Quốc. Tôi đã nhiều lần lục tìm bằng tất cả các nguồn tư liệu, sách báo, giai thoại, mà chưa thấy ở nơi nào, có lưu hành chuyện về đủ trò 24 ngón tra tấn “danh bất hư truyền” được ghi trong nhiều sử sách và... sổ sách (của Nhà tù), được đặt tên “lâm ly bi đát” như vậy cả (kiểu như “Vồ sầu đời”, “Gậy bịêt ly”...). Các trò của Quỷ Sứ, gồm: từ đập vỡ mắt cá chân, dùng ván và đinh ốc ép cho vỡ lồng ngực tù nhân đến dùng kìm rút móng chân móng tay, dùng giẻ tẩm dầu đốt cháy… dương vật, dùng cây sắt nhổ dần từng chiếc răng chính trị phạm; thậm chí cả: móc mắt hoặc dụng bóng điện lớn để gần mắt cho đến khi mắt chín nổ “đòm đọp” mới thôi, luộc “phạm nhân” trong chảo nước sôi cho các “bạn tù” chiêm ngưỡng… Bạn đã nghe ở đâu có những chuyện như ở dưới ngục A Tỳ của ông Diêm Vương như thế chưa? - đấy là chưa kể, hàng nghìn nhân chứng còn sống sờ sờ ra đó với các phần thân thể tàn phế, câu chuyện của họ, những bức ảnh của họ, các hiện vật bảo tàng biết nói đang trưng bày ở Phú Quốc, Sài Gòn, Hà Nội. Tất cả là những lời tố cáo đanh thép nhất.

Đế quốc đã cút, Nguỵ quyền đã thảm bại, đảo Phú Quốc vẫn óng ả nắng vàng, vẫn mượt mà biển xanh, đích thị là một thiên đường du lịch, một con gà đẻ trứng vàng của ngành công nghiệp không khói Việt Nam trong thế kỷ 21. Nói chuyện xưa là để ngẫm chuyện nay, không hiểu sao, trong những chuyến bay Sài Gòn - Phú Quốc, những chuyến tàu xé toang mặt biển từ Rạch Giá đi An Thới, cái dự định tìm gặp bằng được tên đao phủ khét tiếng Trần Văn Nhu cứ ám ảnh tôi mãi. Anh em công an, bộ đội biên phòng, giới nhà báo, văn nghệ sỹ ở thành phố Rạch Giá đã kể với tôi nhiều chuyện về Bảy Nhu, dù hầu hết trong số họ chưa ai trông thấy Nhu bằng xương bằng thịt bao giờ! Chuyện nào cũng ly kỳ như trong tiểu thuyết, rồi ai cũng khuyên tôi nên bỏ ý định đi tìm Bảy Nhu. Có người bảo, ông Nhu không bao giờ chấp nhận gặp một ai nữa đâu, ông ta lánh đời, ăn chay trường, niệm Phật để mong sau này về cõi âm, đỡ phải bị “đền tội” thông qua việc bọn quỷ nó cho vào cối giã sống, hoặc hai tên quỷ ngồi hai bên, nhâm nhi cứa đứt cổ Nhu bằng một sợi dây đàn khò khử đêm ngày. Có người bảo, vì quá nhiều người muốn lén giết chết Nhu cho hả lòng lương thiện của mình, nên Nhu sống biệt tăm trong hang núi giữa một bầy chó béc-giê và hệ thống súng ống cướp được từ thời loạn lạc, ông ta dữ dằn tìm phương kế tự bảo mình (?)...

Lịch sử ghi rõ: Nhà tù Phú Quốc có diện tích hơn 400ha, gồm 44 phân khu, trong 7 năm tồn tại của mình (từ năm 1966 đến 1973 khi hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết, các bên trao trả tù binh), nơi đây đã giam giữ và tra tấn tàn độc với ít nhất 40.000 tù nhân cộng sản và thường dân yêu nước, trong đó khoảng 4.000 người đã chết thảm vì những trò tra tấn tàn độc nhất, ác quỷ nhất. Thi thể của họ bị ném xuống biển hay vùi rấp ven các cánh rừng, rông núi ngoài đảo xa. Năm 2009, tôi cũng đã có mặt, chứng kiến đội quy tập mộ liệt sỹ (k92) của Tỉnh đội Kiên Giang cất bốc, quy tập cả nghìn bộ hài cốt tù nhân ở khu vực nhà ngục Phú Quốc; vừa rồi trở lại, nhìn những cánh rừng tan hoang hang hốc bởi cuộc khai quật mồ liệt sỹ lớn nhất trong lịch sử Việt Nam đó, tôi đã khóc và nghĩ rằng: lẽ ra Truyền hình Việt Nam phải tổ chức truyền hình trực tiếp sự kiện bi tráng quá sức tưởng tượng này. Sóng hình quốc gia ở đâu? Sao mà cứ đi “trực tiếp” quá nhiều chương trình “nực cười” đến mức bị “Táo Truyền hình” đưa ra rỉa rói rồi công luận hả hê như vậy nhỉ? Máy xúc máy ủi làm việc hết công suất, có hố chôn tập thể, gồm cả 500 bộ hài cốt, nhiều bộ xương, sau gần nửa thế kỷ bị chôn rấp, vẫn cứ đau đớn găm bên mình tới 16 cái đinh mười do cai ngục tra tấn khi xưa.

Trong hồ sơ của Trại tù binh Cộng sản Phú Quốc, hiện còn lưu giữ hồ sơ về 24 ngón đòn tra tấn “bài bản và hiệu quả” mà các viên cai ngục đều đã thực hành, đúc rút, lưu truyền “nức tiếng”. Trong suốt mấy chục năm các ngón đòn độc địa kia đã giúp trại tù Phú Quốc vang danh với sứ mệnh của một địa ngục trần gian, nơi mà các viên cai ngục vào vai dã thú một cách hoàn hảo nhất. Còn các công trình, tác phẩm, tư liệu của nhiều tác giả, nhiều nhân chứng viết về nhà ngục Phú Quốc thì đều có nhắc đến 45 hình thức tra tấn tù nhân độc ác ngoài sức tưởng tượng, trong đó đặc biệt “choáng váng” là những trò “sáng tạo vượt bậc” do Bảy Nhu và đồng bọn quái đản của chúng áp dụng trên thân thể chính đồng bào yêu nước của chúng, thông qua các dụng cụ tra tấn “danh bất hư truyền”: Vồ sầu đời và gậy biệt ly. Rằng: bị cái vồ ấy đã đụng vào là coi như sầu đời, chết ném xuống biển làm mồi cho cá dữ, sống thì cũng sầu đời mãn kiếp với các thương tật khiếp vía (vồ sầu đời); còn cái gậy ấy, ai đã bị nếm, coi như ly biệt gia đình, đồng đội và cả... cõi dương gian (gậy biệt ly). Hàng chục nhân chứng đã đem thân tàn ma dại của mình ra chứng minh cho sức mạnh của gậy biệt ly, vồ sầu đời, cả các cái gậy cái vồ ấy đều đã được trưng bày tại Phú Quốc và nhiều địa phương, cả những bức ảnh nạn nhân đã chết và còn sống; cả các pho tượng tạc hình nhân bị tra tấn kinh dị nhất..., tất cả hiện lên trước mắt tôi, với lời thuyết minh của các nhân viên phòng trưng bày tại Nhà tù Phú Quốc. Nhưng, ngần ấy vẫn chưa thật sự ám ảnh và khiến tôi phải mất ăn mất ngủ vì sợ hãi, như là khi đã gặp và trò chuyện với Bảy Nhu.

 Ông Vũ Minh Tằng, khi đem 9 cái răng "định mệnh" của mình "hiến tặng" cho bảo tàng chiến sỹ cách mạng bị địch bắt tù đày (Phú Xuyên, Hà Nội).

Cũng theo hồ sơ lưu trữ, ở Trại giam tù binh Cộng sản Việt Nam/ Phú Quốc, có ít nhất 24 ngón đòn tra tấn cực kỳ hiểm ác được bọn chúng “đúc kết kinh nghiệm” và “ghi chép thành văn bản” để chuyền tay nhau “học tập”, “thực hành”. Trong đó, có ngón đòn “đục răng” là khủng khiếp nhất, man rợ nhất. Và Thượng sĩ Nhu (Bảy Nhu) được bầy ác quỷ ở các khu giam tôn làm “sư phụ” của ngón đòn này. Ông Nguyễn Minh Hoàng, một cựu tù Phú Quốc, hiện sinh sống ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, bị tên Thượng sĩ Nhu đục mất hai chiếc răng trong thời gian ba ngày ba đêm. Anh (Hoàng) bảo với tôi: “Bọn chúng cùm tay cùm chân rồi lấy hai mảnh ván bắt ốc vít xiết ép ngực cho há miệng ra. Và sau đó, tên Thượng sĩ Nhu dùng đồ nghề chạm khắc các mặt hàng thủ công mỹ nghệ để đục răng tôi. Gã làm nhẩn nha như là giỡn chơi nhưng đau nhói buốt tận óc, khiến tôi chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần...”. Rất nhiều tù nhân thân thể tiều tụy khi bị tra tấn bằng ngón đòn đục răng đã phải từ giã cõi đời vì không sao chịu đựng nổi. “Gã đục răng tù nhân để dành được cả mấy bơ sữa bò rồi kết lại thành chuỗi tràng hạt đeo tòng teng trên cổ, ngó giống hệt Sa Tăng đeo xâu đầu lâu trên người trong truyện Tây du ký !” (Trích tác phẩm đã công bố của tác giả Nguyễn Tam Mỹ).

Ngồi chung một bàn trà với “thượng sỹ bẻ răng” Trần Văn Nhu

Một vị đại tá của Tỉnh đội Kiên Giang rất chu đáo bố trí tôi ra đảo, rồi nhờ người dò la tung tích, tìm đến nhà Bảy Nhu. Sở dĩ anh biết ông già 83 tuổi Trần Văn Nhu, là bởi: tỉnh đội tổ chức cất bốc hàng nghìn hài cốt của những người bị tra tấn đến chết “vứt xác” ra bờ biển, triền đồi thời nhà tù Phú Quốc còn nguyên chức năng đen tối là cái “địa ngục trần gian” của cả vạn người yêu nước Việt Nam, trong quá trình đi tìm kiếm rất mệt mỏi, kỳ công, có người hiến kế: không ai rành rẽ việc giết người và chôn rấp người tù... viên cai ngục Bảy Nhu, sao không gọi hắn ra làm “chỉ điểm”? Các chiến sỹ đội K92 bèn tính kế cho mời ông Nhu làm “cố vấn”, hướng đạo, ông nhớ rõ mấy trăm người chôn ở đâu, mấy trăm người ném xuống biển nào, ông hãy lấy công chuộc tội đi chứ.

 Viên cai ngục khét tiếng một thời - Bảy Nhu - ở tuổi ngoài 80, người “căm ghét” chụp ảnh, trong cuộc trò chuyện với chúng tôi.

Nhờ “sức ép” từ phía lực lượng vũ trang, nhờ sự cài cắm nhiệt tình của một Đại tá quân đội đương công tác, lại thêm sự hào hiệp của ông Hai Nam - con người hào hoa từng “mang tội với cách mạng” do có tham gia làm tiếp phẩm cho Trại tù binh Phú Quốc năm xưa (người mà Nhu rất tin tưởng) - tôi đã “đột kích” vào nhà Trần Văn Nhu, “thưởng trà” với một cụ già 83 tuổi, nghe ông ta thú nhận tội ác. Tôi nghe tiếng thở dài khọt khẹt của ông Nhu kèm theo cái câu biện minh cho việc mình làm Quỷ Sứ của mình và đồng bọn, nghe não nề làm sao: “Ngày ấy, loạn ly, “mình ở trong tay nó” (Mỹ - Nguỵ), không ít những người trai như tôi đây, sống cái cảnh trời gọi ai người nấy dạ, biết làm sao được...”.

(còn nữa)

dinhphdc wrote on Dec 24, '11, edited on Dec 24, '11
Bài 2:
Đối thoại sởn gai ốc giữa 1000 cái răng và 01 con quỷ...

71 tuổi, ông Vũ Minh Tằng già yếu lẩy bẩy. “Tôi là Bí thư chi bộ trong nhà tù, tháng 12 năm 1971, sau khi tôi tổ chức cho anh em vượt ngục. Thằng Nhu cho tôi vào chuồng cọp, biệt giam. Nó đập vỡ hai đầu gối tôi, vỡ vụn lạo xạo như những cái vỏ trứng bị vò nát. Tôi ngất đi, nó dùng “Gậy biệt ly” bằng sắt, to như cái ống tuýp nước vả gẫy từng chiếc răng của tôi. 9 chiếc răng cả thảy. Tôi giờ vẫn đi được, nhưng đi nó liêu xiêu, nó chênh chao như người phải gió ấy”. Nói rồi, ông cụ nhỏ thó, quê mùa ấy cứ ngồi bần thần, không khóc, không tức giận, dường như có một nỗi hoang mang kinh hãi nào đó cứ bám riết lấy ông suốt 40 năm qua.

Hàng nghìn cái răng cùng “lên tiếng”

Bảy Nhu đã trở thành người phụ trách các phân khu nhốt tù binh cộng sản, thành người trực tiếp vặn bẻ răng, lấy mắt cá chân của người tù trong suốt nhiều năm, hàng trăm người đã là nạn nhân của “trò chơi tàn độc” này. Nhiều tài liệu cho thấy, Bảy Nhu thậm chí còn sưu tầm răng mà hắn đã vặn của những người tù, hắn để trong một cái mũ sắt lố nhố “kính thưa các loại răng”, hắn coi đó là một cái thú tiêu khiển. Cái “thú” súc vật và bệnh hoạn nhất mà thế gian này từng biết đến, hàng nghìn cái răng đã bị vặn “sống” như thế! Đôi mắt lạnh, giọng nói của Bảy Nhu rít lên, hắn cầm một cái thanh sắt, bắt các người tù há miệng, “mày cho tao xin một cái răng, mày cho cái nào thì cứ nói thẳng ra…?”. Rồi hắn gõ mạnh, giật tới, có người tù ngất đi. Lúc tỉnh lại, Bảy Nhu bảo: mày mà để phun giọt máu nào ra sàn nhà nữa, tao sẽ giết chết, mày hãy uống máu của mày, nuốt hết máu vào trong bụng đi nhé. Rồi thò tay vào mồm, nhặt trả tao cái răng của mày.
 Hơn 1000 di cốt của người tù ở địa ngục trần gian Nhà tù Phú Quốc được khai quật vừa qua, nhiều bộ xương vẫn còn bị găm tới 16 cái đinh sắt.

Tôi (người viết bài này) rợn người mất ngủ liền mấy đêm, khi nghe tận tai giọng kể của cụ Út Minh (đang sống ở gần nhà... Bảy Nhu ngoài đảo Phú Quốc), người tù Cộng sản kiên cường bị nhổ răng ấy. Hàng trăm nhân chứng khác (trong đó có ông Tằng) cũng đã kể như vậy khi đến thăm lại “chiến trường xưa” Phú Quốc. Các cụ chua xót, hãi hùng tường thuật lại, ai cũng nói giống ai, đến mức, các cô hướng dẫn viên du lịch về nguồn ở Nhà tù Phú Quốc nghe đã quá quen thuộc. Và, nhiều người nghe tin Bảy Nhu còn sống thì hùng hổ leo đồi đi tìm đòi… “giết chết chúng nó”. Nhưng khi thấy Bảy Nhu ăn chay, niệm Phật, già nua quá thể, cũng già nua như chính những người tù còn sót lại đến hôm nay thì họ đã bật khóc, thương mình và xót cho kiếp người của viên cai ngục - Bảy Nhu...

Trở lại nhân chứng, người tù cộng sản Nhà tù Phú Quốc bị vặn răng tên là Út Minh. Khi đoàn khai quật cả nghìn bộ hài cốt ngoài Tượng đài Nắm Đấm (gần nhà tù) đang rầm rộ dùng máy xúc máy ủi bóc đất đá tìm kiếm các phần thi thể của bốn nghìn người tù cộng sản bị chôn vùi dưới 5-6 mét đất sâu, thì có một người lính già, mặc quân phục bạc màu đến miệng hố ngồi bần thần, gườm gườm nhìn Bảy Nhu, khi ông Nhu đang được “trưng dụng” tìm chỉ các hố chôn tập thể. Thấy Nhu “bốc phét” nhiều quá, cụ Út Minh mất bình tĩnh, vác gậy dồn đuổi, chửi bới lanh tanh bành. Một cụ già hom hem đuổi đánh một cụ già lẩy bẩy! Cụ già Nhu sợ hãi trốn mất. Thượng tá Nguyễn Văn Cao (tỉnh đội Kiên Giang), người phụ trách công trường khai quật thấy kỳ lạ, bèn bắt chuyện. Ông Út Minh căm phẫn kể: sau nhiều năm ở nhà tù, lúc giải phóng (1975), ông đã quyết tâm không về quê, mà tình nguyện sống ở gần khu vực… hố khai quật. Bởi, trong ông, nỗi ám ảnh địa ngục trần gian quá lớn. Địch đã bị giam ông 6 năm, qua sáu bảy cái “phân khu” tù binh, đến năm 1973, ông Út Minh được địch mang từ Phú Quốc, ra tận sông Thạch Hãn (Quảng Trị) trao trả. Ông trực tiếp bị chính Bảy Nhu (người hàng xóm hiện nay) tra tấn bằng cách đè ra nhổ mất 6 cái răng. “Tui nằm trong tù từ năm 1966, suốt gần 7 năm, tui chỉ dám tính đường chết, chứ tịnh không có dám tính đường sống. Nó bắt tôi há mồm, hỏi cho xin cái răng, “mày cho tao cái nào?”. Tui chán quá, bảo: ông lấy cái nào thì lấy, cái răng nào trong mồm tôi mà chẳng là răng... của ông! Nó ghè thanh sắt vào, nhổ răng tui. Giật gẫy, nó bắt tui thò tay vào miệng mình lôi từng cái răng đỏ quạch máu ra, đặt lên bàn cho nó xem. Rồi nó bắt tui phải tự uống hết số máu chảy trong miệng tui ra, một giọt nào ứa ra ngoài, nó sẽ đánh chết, quẳng xác xuống biển” - cụ Út Minh nói, giống như những gì mà cụ Tằng đã kể với tôi, dù hai người chưa bao giờ biết đến nhau, dù từ sau khi được phóng thích, cụ Tằng chưa bao giờ trở lại Phú Quốc.

“Tôi giữ 9 chiếc răng để nhớ về một cái “địa ngục”, để sau này con cháu nó bỏ vào quan tài cho tôi”

Những chiếc răng xấu số đã lên tiếng. Tôi đem những câu chuyện đó ra hỏi ông Bảy Nhu. Những tưởng viên cai ngục khi xưa, ông già lạnh lùng và tinh quái hôm nay sẽ “cãi bay cối đá”, sẽ dùng đủ mọi thủ thuật “hỏi cung” tù binh độ nọ để biện minh cho các hành vi tàn ác “lẫy lừng” của mình. Không ngờ, ông già Nhu rất điềm đạm, rất ưu thời để rồi... công nhận tất cả.

Căn nhà nằm biệt lập trong đồi bạch đàn, con đường đất đỏ, rậm rịt, tối om, nồng nã mùi lá mục dẫn tôi và ông Hai Nam (người đưa đường, cũng là một tiếp phẩm của trại tù binh Phú Quốc khi xưa, từng đi cải tạo về và nay tham gia nhiều hoạt động xã hội hữu ích, được chính quyền cơ sở và các đoàn thể hiện nay tặng rất nhiều giấy khen, bằng khen; là chủ hãng nước mắm Nam Hương nổi tiếng ở Phú Quốc) vào nhà Trần Văn Nhu. Để có được cuộc trò chuyện giữa tôi và ông Nhu, điều không thể thiếu là các cuộc gọi điện thoại “dọn đường” đầy năn nỉ của ông Hai Nam, bởi ông Nhu tin ông Nam lắm, chẳng gì thì giữa cô đơn, mặc cảm quá lớn ngoài hòn đảo bé nhỏ này, ông Nhu vẫn coi ông Hai Nam là “cùng hội cùng thuyền” với mình. Ông Nam dặn tôi kỹ càng, mua quà gì, nói thế nào, đừng nhắc tới cái gì, và muốn ghi âm, chụp ảnh thì phải làm lén ra sao. Ông Nhu đã già lắm, dù giọng vẫn còn khoẻ. Da đen sạm, xù xì như chuối chín trứng cuốc, răng gẫy mất nhiều, nhưng nói năng rất rành rọt. Trả lời các câu hỏi của khách rất cao tay, biết lảng chuyện và biết dẫn chuyện theo cái lối mà mình muốn... Quả, không hổ danh một viên cai ngục “nức tiếng”, từng lấy lời khai, từng tìm cách ép cung, khủng bố tinh thần và hạ sát nhiều trăm người tù cộng sản đứng vào hàng kiên trung nhất của chúng ta.

Khi tôi hỏi về cung cách “lấy răng”người khác, tại sao ông thích lấy răng cho vào bộ “sưu tập”, ông Nhu trả lời qua loa, rồi nhanh chóng lảng chuyện. Cái đầu hói, tia nhìn lạnh lẽo, dò xét, câu nào của ông Nhu cũng chứa đầy sự mặc cảm. Tôi bảo, tôi là cháu ông Hai Nam, đi nghiên cứu về lịch sử vùng Phú Quốc, qua thăm và tặng chút tiền, quà cho ông Nhu dưỡng sức về già, dẫu thế nào thì ông Nhu cũng đã ở tuổi gần đất xa trời, và người ta bình đẳng trước tuổi già và cái chết. Tôi không kỳ thị, lịch sử không kỳ thị, ông biết ăn chay, niệm Phật, ông thật sự ân hận như thế là mừng cho đời ông lắm rồi. Ông Nhu có vẻ yên tâm, tuy nhiên, thỉnh thoảng ông vẫn giật mình ngắc mình ra khỏi câu chuyện, mà thảng thốt: “Cháu có phải nhà báo không đấy?”, ông tuyệt đối dị ứng, và “cấm tiệt” chuyện quay phim chụp ảnh là vì thế.

Bảy Nhu nói:
“Tui quê ở Đồng Tháp, tui cũng con nhà tử tế lắm chớ. Nhưng tôi sinh ra, bị “bọn chúng nó” (Mỹ - Nguỵ) bắt phải đi lính, rồi đời nó lầm lạc như vậy đó. Sinh năm 1926, năm 20 tuổi tôi đã bị giặc “tổng động viên”, phục vụ trong chính quyền ngụy rất là khổ sở. Năm 1967, khi Trại tù binh Cộng sản Phú Quốc (Nhà tù Phú Quốc) vừa mới được chính quyền Sài Gòn thành lập, tôi được “chúng nó” điều ra hòn đảo này. Lúc đầu, nó bảo, ra đảo 3 tháng sẽ được về với vợ ở Sài Gòn, rồi 6 tháng, rồi ở suốt 7 năm ròng, tôi phải làm “đao phủ” ở đó cho đến đến khi nhà tù giải thể luôn (năm 1973).

“... Sau giải phóng, nhiều người rủ tôi về Đồng Tháp sống để quên hắn cái chỗ tội ác kinh khủng này đi, nhưng tôi không về. Dẫu thế nào, thì cuộc đời tôi đã gắn bó với vùng đảo này. Đã 4 lần các thế lực ở Mỹ muốn tôi nhập cảnh sang bên đó, để “đền đáp” những cống hiến của tôi với “đế quốc” và chính quyền Sài Gòn cũ (?); nhưng, tôi đã không đi, tôi muốn ở lại đây, tôi muốn chết ở đây. Tôi nói lại nhé: gia đình tôi ở Đồng Tháp, có em trai, chị dâu, cháu tôi đều tham gia hoạt động Cách mạng, là những người Cộng sản chân chính (?); vì thế, lúc tôi mới ra đây làm quản lý nhà tù, các “ông” (chính quyền Sài Gòn cũ) thử thách tôi ghê lắm, họ theo dõi tôi từng ly từng tý. Vì thế tôi phải nỗ lực làm việc (tra tấn tù nhân thật tàn ác?), để chứng minh là mình hết lòng trung thành với họ. Kẻo họ sẽ thủ tiêu tôi. Dần dà…”. Ông Nhu bỏ lửng câu nói, hình như trong đầu ông lại thêm một lần lặp lại câu hỏi đầy nghi kỵ “Cháu là nhà báo phải không”. Có lẽ, nếu cứ để ông Nhu nói, ông sẽ kể: “Dần dà, tôi mới tàn ác như thế chứ, mới đeo ống bơ đi “xin răng” và xin mắt cá bà con nước Việt mình, của những người yêu nước chân chính ở “địa ngục trần gian” như thế chứ” (!!?).

Bảy Nhu thở dài: “Nhiều người tù từng bị tôi tra tấn, họ đến thăm lại chiến trường xưa, họ kể lại những năm tháng họ dùng thìa dĩa đào hầm bí mật trốn khỏi nhà tù, rồi họ vỗ vai tôi như những người bằng hữu. Điều đó làm tôi thấy hổ thẹn!”. Ông Nhu khoe tôi tấm ảnh chụp chung với các người tù quả cảm đến kinh hoàng. Có người mất tới 91% sức khỏe, bị mù mắt, bị vặn răng bởi ông Nhu, nhưng khi gặp lại, họ vẫn chụp ảnh chung, vẫn tha thứ tất cả, lời đề tặng mặt sau tấm ảnh người cựu tù gửi từ Sài Gòn ra Phú Quốc cho viên cai ngục Bảy Nhu: “Chúc anh Nhu dồi dào sức khỏe”. Nếu tôi từng cảm thấy kỳ dị, sửng sốt vì tội ác ở nhà tù Phú Quốc, thì giờ đây, điều làm tôi bất ngờ hơn là sự tha thứ của đồng bào mình, đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ chạy lại kể trên. Giọng ông Nhu vẫn đều đều như vọng lên từ một cõi không dính dáng gì đến trần gian: “Bốn nghìn người chết, trước năm 1971, ai chết thì chôn rấp ra ngoài bìa rừng. Xe quân cảnh chở xác người ra, nó ném xuống đấy, rồi nó chạy vội về kẻo sợ du kích bắn tỉa”.

Nghe đến đây, bất giác, tôi nhớ đến ông Vũ Minh Tằng ở Vụ Bản, Nam Định.

Ông Tằng nghẹn lời kể: “Tôi bị bắt ở Quảng Ngãi, vào tháng 9 năm 1967, địch nó xịt hơi ngạt vào hang đá Chẹt rồi đưa tôi ra Nhà tù Phú Quốc. Tên Nhu và bọn quân cảnh đã đập vỡ mắt cá chân của anh em tù binh, lấy cơm, trộn vào máu, chấm vào các thùng phân của chính chúng tôi, nắm thành viên bắt anh em phải ăn. Ăn cơm với máu và phân người.

Chúng nó “lấy” răng tôi bằng cách, dùng những thanh sắt như cái tuýp nước, to hơn đầu ngón tay cái một chút. Nó bắt mình há miệng, nó đánh gẫy từng cái răng, lại đổ nước vào. Bụng tôi trướng lên. Như có ai dùng dao rạch dọc miệng, cuống họng và ổ bụng mình. Tôi ngất đi, 9 cái răng ở trong bụng tôi. Trong chuồng cọp, nó để một cái thùng sơn ở góc nhà, lâu lâu thì tù nhân lại đi cầu (đại tiện) vào đó. Bị tra tấn nhiều, có khi tôi ngồi hàng tiếng đồng hồ, nó chỉ “ra” được cục phân bằng ngón tay út ấy, chờ mãi các cái răng của mình mới lần lượt được “đi cầu” ra, tôi lại vò đám phân của mình, tìm răng, rồi bọc vào xi-líp (quần đùi). Tôi giấu răng tôi ở đó suốt những năm lao tù, cho đến tận ngày trở về. Tôi giữ suốt 39 năm qua với hy vọng, khi tôi chết, 9 cái răng sẽ theo tôi vào trong quan tài. Tôi đã dặn con cháu mình như thế!”.

Nói xong, vân vê 9 cái răng, ông Tằng nấc lên, ông khóc ngon lành như một đứa trẻ.

(còn nữa)

dinhphdc
 wrote on Dec 24, '11
Bài 3:

Cận cảnh một phiên “ăn thịt người” của “bầy quỷ sống” Bảy Nhu và đồng bọn!

Có một sự thật như sau: từ khi nhà ngục Phú Quốc hết sứ mệnh địa ngục trần gian của nó (năm 1973), “bức màn đen tối” che phủ các “sân khấu” tra tấn bất nhân kiểu nhổ răng, lấy mắt cá chân, tẩm đốt dương vật tù nhân, luộc người trong chảo nước sôi… đã được vén lên. Gậy biệt ly, vồ sầu đời đã theo lời kể của hàng nghìn, hàng vạn người tù sống sót tỏa đi khắp mọi miền. Viên cai ngục Bảy Nhu cũng trở nên khét tiếng qua nhiều tài liệu bảo tàng, nhiều cuốn sách, bài báo đương thời và sau này. Tuy nhiên, vì thời gian xa xôi dần, vì một bên là “địa ngục” của “quỷ sống” ẩn dật với một bên là tráng chí của những người Cộng sản quật cường đã về lại quê hương, cho nên, các câu chuyện về mấy chục ngón đòn tra tấn đã đi vào “văn sách” của Trại tù binh kia vẫn bảng lảng đó đây, cứ như là huyền thoại.

Và, đó là lý do để người viết bài này quyết tâm đi tìm Bảy Nhu, gặp, trò chuyện với các nạn nhân của các trò “ăn thịt người” mà Nhu cùng các “thuộc hạ” của ông ta đã tiến hành. Tiếp theo, với sự trung thực trong từng chi tiết nhỏ nhất, người viết xin được “phục dựng” lại một phiên tra tấn tàn bạo nhất mà lịch sử loài người đã từng có được...
 


Có khi, hứng lên là quân cảnh “nã” vài quả cối, khênh 80 xác tù nhân đi

Ông Vũ Minh Tằng kể: Tháng 9 năm 1967, sau khi bị bắt ở hang đá Chẹt ngoài Quảng Ngãi, tôi bị địch “di lý” ra Nhà tù Phú Quốc, tra tấn dã man. Bấy giờ tôi 27 tuổi, đã có vợ và 2 con ở quê nhà Nam Định. Sau khi đưa khoảng gần 100 đồng đội vượt ngục thành công, lại bị lộ do địch “cài” người giả làm tù nhân vận động “chiêu hồi”, thế là tôi bị Nhu và đồng bọn nhốt vào chuồng cọp.

Tại đây, tôi đã chứng kiến nhiều người chết bởi tay Nhu lắm. Có ngày nhiều thì khoảng 80 người tù bị giết chết, có ngày ít nhất cũng 20 “mạng”. Tôi miêu tả để nhà báo hình dung: tường chuồng cọp rộng 24 m2, trần chỉ cao có 1,8m - thế mà nó lèn vào đó 3 - 4 tầng người nằm ngồi, đè lên nhau như trong một cái bu gà đầy ự. Bờ tường sắt dày tới 20cm. Nó có một cái lỗ thông hơi, ở đó chỉ đút lọt được một cái cổ tay người, chứ không vừa được cái nắm đấm. Thế là, chúng tôi cứ thay nhau đến gần lỗ thông hơi đó để hít được hơi sương biển bên ngoài, với hy vọng là mình sẽ còn sống được. Bên trong ngột ngạt lắm. Người sống và người chết ở lẫn lộn, đôi khi không tài nào phân biệt được, vì rất nhiều người thoi thóp. Cứ thấy người chết đến đâu, nó lại lèn thêm một đợt nữa vào cho đầy “chuồng” (đủ lưu lượng 300 người!).

Đợt mà tôi sống sót ra khỏi chuồng cọp, cả chuồng chỉ còn sống có 18 anh em thôi. Trong khi, lúc nào ở đó cũng chặt cứng lưu lượng là 300 người trong diện tích 24 m2! Ví dụ hôm nay chết 70 người, tối đến nó đếm xác, khênh đi, lại lèn thêm 70 người khác vào thay thế. Trong 24 m2 đó, có đủ người Việt, Lào, Cam Pu Chia,... đủ người miền Trung, Nam, Bắc cả.

Tôi không thể nào quên được, vào tháng 12 năm 1971, hôm đó cũng tối trời như thế này, khoảng vào giờ tôi nói chuyện với anh đây (21 giờ), Nhu và đám quân cảnh điệu tôi ra khỏi chuồng cọp. Nó dùng chày đập dần dần, từng nhát một, đập vỡ đầu gối tôi, đóng đinh vào hai chân tôi, từng chiếc đinh một. Tôi thấy đầu gối mình lạo xạo, vỡ vụn, rồi tôi không biết gì nữa. Nó lại đổ nước vào mặt cho tôi tỉnh. Tôi thầm lạy bố mẹ, thầm vĩnh biệt vợ và các con, rồi tính đường để chết. Nhưng nó không muốn tôi chết ngay. Nó muốn tôi phải vào chuồng cọp, biệt giam, rồi tra tấn thật nhiều ngày cho đến chết. Nó không bắn cho tôi chết luôn đâu! Nó muốn mình phải chết một cách từ từ, vừa chết vừa nhớ lại về quê hương, đất nước, bố mẹ, vợ con, chết âm chết ỉ, chết đi sống lại cơ. Có ngày ở chuồng cọp đó chết tới 70 - 80 “khênh” (“thuật ngữ” ông Tằng và đồng đội dùng để chỉ những người chết bị khênh đi) đấy; nó từ từ cho từng xác người vào quan tài sau thời gian xác người và người sống bị lèn chung trong phòng sắt 24 m2 kia. Nó chậm rãi mang từng cỗ quan tài đi... ném xuống biển. Nó bắt tôi nhìn các cảnh kinh hoàng đó. Nó để cho tôi co tay sờ vào đầu gối mình lạo xạo, chi chít những cái đinh sắt dài mười phân (centimet). Sau gần 40 năm, đầu gối của tôi bây giờ vẫn chắp vá từng mảnh lục cục, lạo xạo, sờ vào đó có cảm giác rõ ràng, các chốt đinh nó vẫn sâu hoắm còn đây, nhìn rõ lắm.

Sau màn đập mắt cá chân, đóng đinh vào cơ thể, là đến “đặc sản” riêng có của Nhu: đục răng. Vẫn một cái tuýp nước bằng sắt, nó ghè vào miệng tôi, ghè đến lúc tôi ngất, nó cho đổ nước bắt tôi uống, uống đến trướng bụng tôi lên. Tôi ngất 9 lần sau mỗi cú ghè và tôi lần lượt nuốt 9 cái răng của tôi vào bụng, cùng với rất nhiều máu. Nhu không được “vinh dự” ngồi chờ nhìn tôi nhằn ra 9 cái răng của tôi ra, đặt lên bàn “cống” cho nó, chắc nó hậm hực lắm. Tôi luôn tin là tôi sẽ chết vì tay Nhu, tôi phải chết cho đáng mặt nam nhi thời đất nước còn lầm than! Tôi là Phó Bí thư chi bộ ở trại tù, tôi vận động anh em học tập chính trị, chống bọn “chiêu hồi”, vượt ngục bất cứ khi nào có thể. Biết thế, nên Nhu và đồng bọn càng tổ chức nhiều trò tàn độc hơn để hăm dọa.

Đến mức như thế này thì anh bảo là… có rách giời rơi xuống không. Có lúc thằng quân cảnh gác ở chòi gác, đang yên đang lành, Nhu hứng chí ra lệnh đáp (bắn) một quả cối 82 xuống khu tù nhân, vài ba chục “khênh” (người chết), rồi có những lần 80 khênh. Chúng nó tuyên bố, kể cả chết hết đám đó (tù binh) nó chỉ mất năm cắc, là 5 xu thôi (trong khi lương của Nhu là hơn 10 cây vàng/ tháng). Rằng, nó lập một cái văn bản, nói rằng giới cầm quyền giam giữ tù binh nhìn thấy tù nhân nổi loạn, nên buộc lòng phải thi hành nhiệm vụ, phải nã vài quả cối 82 vào để trấn an tình hình. Thế là, xác người lại chôn rấp ngoài bìa đồi, hoặc ném thẳng xuống biển, sẽ không ai biết đấy là đâu.

Tôi ra khỏi nhà tù, mất 66% sức khỏe. Cảm ơn anh cho tôi xem lại những bức ảnh ông Nhu ở tuổi 83 bây giờ, tôi không thể ngờ ông ta còn sống, không thể ngờ nhà nước ta lại nhân đạo tha thứ cho hắn. Nếu gặp, tôi sẽ nói: “Mày tra tấn tao dã man quá, có vẻ như mày không phải là một con người nữa, Nhu ạ”. Tôi sẽ không đuổi đánh ông ta như cụ Út Minh mà nhà báo kể, là bởi vì, việc ông ta tiếp tục sống, là một việc cũng rất hay cho lịch sử. Là một lời tố cáo đanh thép nhất, là nhân chứng sống của địa ngục trần gian nhà tù Phú Quốc năm xưa. Mặt khác, nhìn vào sự độc địa của Nhu và đám quân cảnh, người ta còn thấy sự quật cường, sự can trường của những người tù chính trị ở Phú Quốc bấy giờ.

Tôi còn nhớ, khi gần đến ngày buộc phải thả bọn tôi ra theo Hiệp định Paris (năm 1973), Nhu còn “tiếc nuối” bảo tôi là: “Mày có một cỗ ván (quan tài) rồi, nhưng mà mày không được chui vào cỗ ván đó (ý là còn sống sót). Chứ mày chui vào (chết vì tra tấn) thì bọn tao cũng thả mày xuống biển”. Ông ta rất khát máu.

Bảy Nhu: “Sau này, tôi thấm thía hai chữ “Đồng bào” của người Việt Nam mình, quý hóa lắm!”

“Nhân nào quả nấy, tôi và Nhu cũng đã gần đất xa trời cả rồi, oán thán nhau, cũng chẳng ích gì nữa” - ông Tằng thở dài, ngồi im lặng như một pho tượng trong bảo tàng. Từ nanh vuốt của quỷ ngoài đảo Phú Quốc ra Bắc, ông Tằng được điều về công tác tại Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, làm đội phó đội an dưỡng hơn 1 năm trời. Sau đó, ông về quê, sống nốt phần đời với sự tàn phế mất 66% sức khỏe, với nghề làm ruộng. Bây giờ, ông Tằng hưởng chế độ của “bệnh binh 2”, mỗi tháng được 1,1 triệu đồng trợ cấp. Trong thì buổi “gạo châu củi quế”, giá cả leo thang chóng mặt, ông Tằng sống khốn khó, vết thương cũ hành hoành, ông đi lại chệnh choạng do đầu gối vỡ dập nhiều mảnh, đầu choáng liên tục vì thiếu máu não Chưa hết, ông Tằng còn phải nuôi thêm người em trai tàn tật, bị gẫy cột sống từ năm 13 tuổi, năm nay đã ngoài 60 tuổi. Bà vợ ông Tằng thì cũng đã 72 tuổi, đầu gối lúc nào cũng xưng như cái ấm ủ do bệnh “thấp khớp đớp tim”, “bà ấy nhà tôi sống bằng thuốc chứ không sống bằng cơm thịt rau cỏ như người thường đâu”. Tuổi già và nỗi tủi phận nào đó dâng lên, làm giọng cụ già hom hem Vũ Minh Tằng nghẹn lại, có gì đó thật chua xót.

Oái oăm và tình cờ thay, khi gặp chúng tôi, ông Nhu cũng bị bệnh khớp hành hạ ghê lắm, đi cà nhắc y như… vợ ông Tằng. Nhà khó khăn, đàn con cháu, người tai nạn chết, người sống nghèo ít học khắp nơi. Song, dường như sự thanh bần nào đó, sự chay tịnh niệm Phật vớt vát cuối đời nào đó của ông cũng đã là sự ưu ái quá lớn của xã hội ta, của số phận với ông Nhu rồi. Trước lúc chia tay, run run nhận món quà của người khách xa, ông Nhu hồ hởi khoe: thế là nội ngoại tôi có đủ 6 đứa cháu rồi. Tôi muộn đường con cái, vì lúc ở ngoài đảo, cuộc sống chẳng khác gì các tù nhân, tôi có được gần vợ đâu mà đẻ. Vợ ở tít mãi Sài Gòn.
“Tôi đi cải tạo, nhờ tinh thần cải tạo tốt, tôi được trở về nhà với đàn con của mình sớm hơn so với “bản án” khoảng 2 năm. Thế mà người ta kéo đến, người ta dằn hắt, bảo rằng sao thằng ác ôn nó lại được tha về. Tôi về, mặc áo lành người ta cũng chửi, mặc áo rách người ta cũng chửi. Nhiều người cứ xông lên đòi giết chết tôi. Chính quyền cơ sở đã bảo vệ tôi. Sau này, tôi thấm thía hai chữ “Đồng bào” của người Việt Nam mình, họ thư thứ cho tôi, nghe nói ở nước ngoài, chữ Đồng bào không dịch được ra tiếng Tây, quý hóa lắm. Tôi tình nguyện làm công tác xã hội để chuộc lỗi lầm là vì thế” - Bảy Nhu tỏ ra xúc động nói.

Ông Bảy Nhu còn ngụy biện nhiều lắm: “Mỹ nó không đánh mình đâu, chúng nó chỉ có 1 thằng giám sát cai quản, đánh sao nổi, mình làm sai là nó ghi vào “sổ đen” cái điều đó, có hành vi gì đó là đưa ông lớn nó, ông lớn nó gọi điện thoại xử lý mình. Thằng Mỹ nó chỉ đi lù lù không có nói hết. Trước 1970, kỷ luận lỏng lẻo, muốn đánh đập, tra tấn ai là tùy. Sau này mới “chặt” đó. Sau này mà đánh người không trong diện đánh, có khi nó phế truất ra khỏi quân cảnh, đi làm bộ binh đánh nhau thừa sống thiếu chết ở ngoài hòn tên mũi đạn kia kìa (?!). Vào quân cảnh là danh giá, khó khăn lắm, chứ bộ”.

Dù buốt xót, dù choáng váng và ít nhiều mất mát niềm tin vào lòng nhân ái ở đời, song, chúng ta cũng cần phải sớm ghi lại những cảnh “kinh dị” này.

Bởi đó là Lịch Sử.

Phạm Thị Thảo Giang

dinhphdc wrote on Jun 12, '10, edited on Dec 24, '11

Hồi ức đen của viên cai ngục nhà tù Phú Quốc

Mà không phải xa xôi huyền thoại gì, cuối năm 2008 - đầu năm 2009 vừa rồi, Đội K92 của Tỉnh đội Kiên Giang chỉ “ra quân” trong hai chiến dịch, đã phát hiện và cất bốc được tới khoảng 1.300 phần di cốt, có những hố chôn tập thể với 500 con người đã nằm cô quạnh suốt mấy chục năm bên bìa rừng.

Có bộ xương người Cộng sản vì nước quên thân khi cất bốc, người ta vô cùng hãi hùng phát hiện ra có tới 16 cái đinh sắt khổng lồ đóng khắp cơ thể.Với cuộc truy tìm hài cốt lớn nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam này (3.000 bộ), câu chuyện về địa ngục trần gian với những con quỷ sứ đội lốt người dần được hiện lên, như thước phim quay chậm vô cùng thuyết phục.

Khu Chuồng Cọp

Bọn chúng đập vỡ mắt cá chân, dùng ván và đinh ốc ép cho vỡ lồng ngực tù nhân; dùng kìm rút móng chân móng tay, dùng giẻ tẩm dầu đốt… dương vật, dùng cây sắt nhổ dần từng chiếc răng chính trị phạm; móc mắt hoặc dùng bóng điện lớn để gần mắt cho đến khi mắt chín nổ “đòm đọp” mới thôi, luộc người trong chảo nước sôi…

Trong hồ sơ của Trại tù binh Cộng sản Phú Quốc, hiện còn lưu giữ hồ sơ về 24 ngón đòn tra tấn “bài bản và hiệu quả” mà các viên cai ngục đều đã thực hành, đúc rút, lưu truyền trong suốt mấy chục năm nó làm sứ mệnh của địa ngục trần gian.

Bất ngờ thay, viên cai ngục được coi là tàn ác nhất nhà lao Cây Dừa, năm nay 83 tuổi, vẫn đang sống, ăn chay trường, nhang khói niệm Phật ở khu đồi hẻo lánh ngoài đảo Phú Quốc>.

Gian nan tìm viên cai ngục

Khi tôi có ý định đi tìm viên cai ngục từng móc mắt, nhổ răng các tù binh Cộng sản, nhiều người đã cực lực phản đối. Có người bảo, ông ta sống ẩn dật trên nương rẫy hoang vu rậm rạp ngoài xó đảo, với bầy chó hung dữ canh gác, tuyệt đối không tiếp xúc với ai.


Có người cảnh báo: Bảy Nhu (viên cai ngục, tên thật là Trần Văn Nhu) làm Giám thị trưởng quyền sinh quyền sát một thời, hắn sống được đến giờ, là nhờ một quyền năng bí ẩn của thế lực nào đó, gặp hắn rất nguy hiểm. Tôi không tin vào những điều đồn thổi đó. Chỉ ngặt vì không tài nào lần ra con đường đến khu vực mà Bảy Nhu đang sinh sống. Và điều tôi băn khoăn nhất là khi vượt biển ra An Thới là sẽ nói gì với ông ta - một đao phủ của địa ngục.

alt

Đại tá, Đội trưởng Đội K92, anh Nguyễn Minh Chánh đón tôi ở TP Rạch Giá. Anh Chánh đã dẫn quân đi khắp núi rừng Campuchia xa xôi, rậm rạp trong nhiều năm, cất bốc hàng vạn bộ hài cốt bộ đội tình nguyện Việt Nam. Hiện nay, chính đội quân của anh, cũng đã tìm kiếm và quy tập được hơn 1.000 bộ hài cốt các chiến sỹ Cộng sản đã vì nước quên thân ở nhà tù Phú Quốc.

Đại tá Chánh bảo: Tôi có gặp Bảy Nhu một lần để hỏi ông ta khai quật ở khu vực nào thì trúng địa điểm nhất. Ông ta là người tra tấn, rồi trực tiếp hoặc ra lệnh quẳng xác tù nhân ở đâu, ông ta phải nhớ chứ. Anh vào đó, rất khó tìm đường, càng khó tìm được lý do để có thể gợi cho ông ta mở miệng, khi mà ông ta đã quá mặc cảm, quá cảnh giác trước các cuộc tìm kiếm nhân chứng ác ôn của nhà lao Cây Dừa.

Tôi giới thiệu anh với một người, người này là chỗ chí thân, lại là chỗ cùng mang nỗi mặc cảm là người quản lý của nhà tù Phú Quốc ác ôn ngày xưa kia. Họ có chung nỗi mặc cảm lớn; nhưng ông  này hào hiệp, tôi mà gọi điện giới thiệu, ông ấy sẽ giúp anh.

Người đó là ông Hai Nam. Chừng gần 70 tuổi, vốn là tiếp phẩm cho nhà lao, sau thời gian cải tạo, ông Hai Nam đã gần như xóa hết mặc cảm “diều hâu cú vọ” của nhà tù tàn ác, giờ là cán bộ văn hóa của thị trấn với bằng khen giấy khen giăng kín phòng khách, là chủ hãng nước mắm Nam Hương nổi tiếng.

Ông Hai Nam là chỗ quen biết lâu năm và am hiểu cuộc đời Bảy Nhu. Sau cả buổi sáng thuyết phục, ông Nam dè dặt: để tôi gọi điện cho ông ta xem đã. Ông ấy càng già, càng khép mình quanh khu vườn hẻo lánh đó. “Vào đó, cháu bảo cháu là cháu ruột của chú Nam, là người nghiên cứu lịch sử nhà tù Phú Quốc, muốn qua thăm, tặng quà cho Bảy Nhu”.

Người đàn ông râu bạc dùng chiếc Dream chở tôi đi theo những con đường dốc, qua những cánh rừng bạch đàn tối đến một ngôi nhà nhỏ. Bước vào khu vườn, ông Hai Nam thở hắt ra: “Chúng tôi khổ nhục, sống trong cái thời buổi chúng nó bắt lính tàn bạo. Trời gọi ai thì người nấy phải dạ, mà chú”. Dường như nỗi tủi phận dâng ngập lên, từ bấy đến cuối cuộc tiếp xúc với Bảy Nhu, ông Hai Nam chỉ ngồi im, khẽ vuốt vuốt bộ ria mép dày, cứng và bạc

Lý thuyết ngụy biện của quỷ

Kiên quyết không cho phép… chụp ảnh. Da mồi, sạm đen, tóc bạc, đầu hói, hai hàm răng gẫy mất nhiều phần, Bảy Nhu nói chuyện mệt mỏi, mắt luôn nhìn lơ đầy mặc cảm. Dù tôi và ông Hai Nam giới thiệu thế nào, Bảy Nhu vẫn luôn cảnh giác. Bảy Nhu luôn biết cách tránh những câu hỏi trực diện, kiểu như: ai nghĩ ra trò “nhổ răng” các người tù, ông đã nhổ răng họ bằng dụng cụ gì? Việc tẩm dầu vào giẻ đốt dương vật của người tù có thật không? Dù sám hối rất nhiều thông qua việc ăn chay và niệm Phật, nhưng trong ký ức đen đầy máu, hình như Bảy Nhu vẫn kinh hãi những người đã có ý định trả thù mình.


Bảy Nhu luôn ngụy biện cho sự tha hóa và man rợ của mình: Tui quê ở Đồng Tháp. Sau giải phóng, nhiều người rủ tôi về Đồng Tháp sống để quên hẳn cái chỗ tội ác này đi, nhưng tôi không về. Đã 4 lần các thế lực ở Mỹ muốn tôi nhập cảnh sang bên đó, để đền đáp những cống hiến của tôi với đế quốc và chính quyền Sài Gòn cũ. Nhưng tôi muốn ở lại đây.

Sinh năm 1926, năm 20 tuổi tôi đã bị giặc tổng động viên bắt phải đi lính cho chúng. Sau này, tôi tiếp tục phục vụ trong chính quyền ngụy. Năm 1968, khi Trại tù binh Cộng sản Phú Quốc vừa mới được chính quyền Sài Gòn thành lập, tôi được điều ra hòn đảo này. Lúc đầu, nó bảo, ra đảo 3 tháng sẽ được về với vợ ở Sài Gòn, rồi 6 tháng, rồi ở đến khi nhà tù giải thể luôn.

Gia đình tôi ở Đồng Tháp, có em trai, chị dâu, cháu tôi đều tham gia hoạt động Cách mạng. Vì thế, các “ông” quản lý nhà tù và chính quyền Sài Gòn thử thách tôi ghê lắm, họ theo dõi tôi từng tí. Vì thế tôi phải nỗ lực làm việc (tra tấn tù nhân thật tàn ác?), để chứng minh là mình hết lòng trung thành với họ. Kẻo họ sẽ thủ tiêu. Dần dà…

Dần dà, Bảy Nhu đã trở thành người phụ trách các phân khu nhốt tù binh Cộng sản, thành người trực tiếp vặn bẻ răng, lấy mắt cá chân của người tù. Nhiều tài liệu cho thấy, Bảy Nhu thậm chí còn sưu tầm răng mà hắn đã vặn của những người tù, để trong một cái mũ sắt.

Đôi mắt lạnh, giọng nói của Bảy Nhu rít lên, hắn cầm một thanh sắt, bắt các người tù há miệng nói: “Mày cho tao xin một cái răng, mày cho cái nào…?”. Rồi hắn gõ mạnh, giật tới, có người tù ngất đi. Lúc tỉnh lại, Bảy Nhu bảo: Mày mà để phun giọt máu nào ra sàn nhà, tao sẽ giết chết, mày hãy uống máu của mày, nuốt hết. Rồi thò tay vào mồm, nhặt trả tao cái răng của mày. Tôi rợn người khi nghe tận tai giọng kể của người tù Cộng sản kiên cường bị nhổ răng ấy.

Hàng trăm nhân chứng khác cũng đã kể như vậy khi đến thăm lại chiến trường xưa Phú Quốc, kể đến mức, các cô hướng dẫn viên ở nhà tù Phú Quốc nghe quá quen thuộc, nhiều người nghe tin Bảy Nhu còn sống thì hùng hổ leo đồi đi tìm đòi… “giết chết chúng nó”. Nhưng khi thấy Bảy Nhu ăn chay, niệm Phật, già nua quá thể, họ đã dừng lại. Họ lại tha tội cho Bảy Nhu một lần nữa.

Khi đoàn khai quật cả nghìn bộ hài cốt ngoài tượng đài Nắm Đấm (gần nhà tù) đang rầm rộ dùng máy xúc máy ủi bóc đất đá tìm kiếm các phần thi thể của 4.000 người tù Cộng sản bị chôn vùi dưới 5-6 mét đất sâu, thì có một người lính già, mặc quân phục bạc màu đến miệng hố ngồi bần thần.

Trung tá Nguyễn Văn Cao, người phụ trách công trường bèn bắt chuyện. Ông căm phẫn kể: Sau nhiều năm ở nhà tù, lúc giải phóng (1975), ông đã quyết tâm sống ở gần khu vực… hố khai quật, vì nỗi ám ảnh địa ngục trần gian. Địch đã giam ông 6 năm, qua sáu bảy cái khu tù binh, đến trước giải phóng miền Nam mới được địch mang ra tận sông Thạch Hãn (Quảng Trị) trao trả.

Ông trực tiếp bị chính Bảy Nhu (người hàng xóm hiện nay) tra tấn bằng cách đè ra nhổ mất 6 cái răng. “Tui nằm trong tù từ năm 1966, suốt gần 7 năm, tui chỉ dám tính đường chết, chứ tịnh không có dám tính đường sống. Nó bắt tôi há mồm, hỏi cho xin cái răng, cho cái nào? Tui chán quá, bảo lấy cái nào thì lấy. Nó ghè thanh sắt vào, nhổ răng tui. Giật gẫy, nó bắt tui thò tay vào miệng mình lôi từng cái răng đỏ quạch máu ra, đặt lên bàn cho nó xem. Rồi nó bắt tui phải tự uống hết số máu chảy trong miệng tui ra, một giọt nào ứa ra ngoài, nó sẽ đánh chết” - cụ Út Minh nói.

Bảy Nhu thở dài: “Nhiều người tù từng bị tôi tra tấn, họ đến thăm lại chiến trường xưa, họ kể lại những năm tháng họ dùng thìa dĩa đào hầm bí mật trốn khỏi nhà tù, rồi họ vỗ vai tôi. Điều đó làm tôi thấy hổ thẹn!”. Ông Nhu khoe tôi tấm ảnh chụp chung với các người tù quả cảm đến kinh hoàng.

Có người mất tới 91% sức khỏe, bị mù mắt, bị ông Nhu vặn răng, nhưng khi gặp lại vẫn chụp ảnh chung, vẫn tha thứ tất cả. Nếu tôi từng cảm thấy kinh hoàng vì tội ác ở nhà tù Phú Quốc, thì giờ đây, điều làm tôi như “chết lặng” đi là sự tha thứ của đồng bào mình, đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ chạy lại.

Khi Nhà nước tiến hành phục dựng nhiều hạng mục của nhà tù Phú Quốc, trưng bày những tấm ảnh thảm khốc về việc tra tấn, giết chóc tù nhân, Bảy Nhu xin được giúp những người làm việc đó dựng lại tội lỗi của chính ông ta và chế độ mà ông ta hầu phục.

Ông chỉ cho cán bộ biết từng quả đồi, nơi nào sẽ chứa nhiều hài cốt người tù nhất. Đồi 37, đồi 100, cứ đào khắc thấy cốt, cả nghìn bộ. Cả trăm vụ vượt ngục, vụ đả đảo chế độ nhà tù, hội họp, rải truyền đơn, treo biểu ngữ; vụ nào khi đem xử lý, thậm chí cũng có người bị hành quyết ngay lập tức.

Bị tra tấn, luộc người, đóng đinh khắp cơ thể, thì kiểu gì chẳng chết. 4.000 người chết, trước năm 1971, ai chết thì chôn rấp ra ngoài bìa rừng. Xe quân cảnh chở xác người ra, ném xuống đấy, rồi nó chạy vội về kẻo sợ du kích bắn tỉa. Cho nên, dù khai quật cả nghìn phần di cốt như vừa qua, cũng chỉ gặp một vài tử sỹ có tên họ kèm theo (là ông Nguyễn Văn Khai, người Thanh Hóa).

Vì sao xuất hiện những bộ cốt có tên họ? Vì khi đồng đội bị chết, nhiều bạn tù đã thương cảm viết tên người xấu số vào mảnh giấy rồi gói trong giấy nilon, để hy vọng sau này con cháu sẽ có thể tìm thấy các bậc Anh hùng.

Khu bãi tha ma chồng chất thây người tù đó, thật là đáng sợ. Giờ đây, khi tôi chỉ cho cán bộ khai quật, người ta không lý giải được là bởi tại làm sao mà thây người bị vùi dưới 5-6 mét đất sâu hoắm. Xe cuốc gào rú suốt ngày đêm, mà dưới đất đen vẫn còn xương người.

Tôi còn nhớ, năm 1968, trại tù binh có tổ chức san ủi khu vực nghĩa địa, cho nên xương người bị khỏa lấp hết. Có người bảo, nhân viên nhà tù người ta làm như vậy, là bởi vì họ sợ các tổ chức nhân quyền, giám sát quốc tế sẽ đến kiểm tra, sẽ phát hiện ra bao điều tàn độc, vô lối, thất nhân tâm.

Sau năm 1971, trước sức ép nhiều mặt, Ban quản lý nhà tù bèn cho thành lập khu “Nghĩa địa tù binh Cộng sản” rộng 11.000m2, với “cổng chào” là hai cây thông khổng lồ, một thanh ván bắc ngang trang trí biển hiệu đàng hoàng. Thế nhưng hình thức tra tấn thì vẫn đủ 24 “món” của ngục A Tỳ.

Kỹ nghệ giết người

Bảy Nhu dè dặt trong chuyện trò đến mức… cao thủ. Có lẽ cái nghề thẩm vấn, tra khảo moi thông tin, tạo dựng các ăng ten (như cách nói của ông ta) để điều tra, ly gián mấy chục nghìn người tù binh Cộng sản suốt nhiều năm đã tạo cho ông ta sự bài bản cáo già trong giao tiếp đó?

Ông ta thích nói về những sám hối và nỗi khổ của mình khi sứ mệnh đen tối của nhà tù Phú Quốc kết thúc, ông ta chung sống với những người còn mãi mãi hãi hùng vì tội ác của ông và đồng bọn:

“Tôi đi cải tạo, nhờ tinh thần cải tạo tốt, tôi được trở về nhà với đàn con của mình sớm hơn so với “bản án” khoảng 2 năm. Thế mà người ta kéo đến, người ta dằn hắt, bảo rằng sao thằng ác ôn nó lại được tha về. Tôi về, mặc áo lành người ta cũng chửi, mặc áo rách người ta cũng chửi. Nhiều người cứ xông lên đòi giết chết tôi.

Chính quyền cơ sở đã bảo vệ tôi. Sau này, tôi thấm thía hai chữ “Đồng bào” của người Việt Nam mình, họ tha thứ cho tôi, nghe nói ở nước ngoài, chữ Đồng bào không dịch được ra tiếng Tây, quý hóa lắm. Tôi tình nguyện làm công tác xã hội để chuộc lỗi lầm, tôi am hiểu về các hố chôn tập thể, các quy cách thủ tục, các vấn đề còn gây nhiều tranh cãi ở nhà tù.

Tôi ở lại gần khu vực nhà tù mà không về Đồng Tháp hay ra nước ngoài theo các quan thầy, là vì lẽ đó. Tôi tiếc là hồi khai quật được rất nhiều hài cốt ở khu vực tượng đài Nắm Đấm, tôi đã bảo người ta rằng, tôi nhớ rõ vụ san ủi năm 1968, phải đào tiếp xuống để cất bốc các chiến sỹ lên, họ sợ làm như thế sẽ gây hư hại đến di tích.

Y như rằng, bây giờ lại tiếp tục phải đào lại và thấy rất nhiều cốt. Nhiều khu vực, rễ cây ăn hết các phần thi thể, rất tội. Tôi bảo, hãy cứ đào, nhiều chỗ chỉ còn đất đen hay đất màu hoàng thổ, lại có mấy miếng vải thôi, cũng cứ phải bốc. Vì sao? Vì rằng, đem đất ấy bỏ vào chậu nước, nếu thấy nổi váng lên, là đất có xương cốt thịt da người tù đấy. Kinh nghiệm của tôi là như thế mà”.

Nhiều đoạn Bảy Nhu lại tìm cách ngụy biện để cố chạy trốn khỏi tội ác tày trời của mình:


“Thời buổi trời gọi ai người nấy dạ mà. Ở đâu thì phải theo đó. Thời buổi mà mình ở trong tay nó thì nó bảo mình đi lính phải đi lính thôi, chứ mình không có biết phải cãi lại nó như thế nào đâu. Nó bảo đi ít ngày rồi về, ai ngờ đi mãi (đến giải phóng). Sau này mình mới hiểu được vấn đề tội ác của mình, sau này mới hiểu được xã hội chủ nghĩa là cái xã hội tốt đẹp thật sự. Thật sự trước đây không biết cái đó, chứ nó gây tội ác xong hết trơn, nó bỏ chạy bỏ lại một mình mình. Lúc mình ở ngoài đảo (làm cai ngục) với bọn ở ngoài đó, nó nói bậy lung tung. Mình không nhận ra là, bọn tay sai của chế độ cũ kia, nó chỉ làm lung tung kiếm tiền thôi, chứ không có lý tưởng gì hết. Nó bảo là Việt cộng ốm (gầy) đến mức treo tàu lá chuối không rớt (rơi). Nó đang đánh vào tâm lý chiến mà mình không biết”.


Có khi bị hỏi độp thẳng tưng, ông ta cũng tiết lộ nhiều chuyện chưa bao giờ công luận, sách sử từng “nghe”:

Hỏi: Hồi đó ông chấp nhận làm nhiều việc ác quá, chắc được giặc nó trả lương cao?


Bảy Nhu: 
Lương tôi là 1.400 đồng, tiền bây giờ trả không nổi đâu (ý là không ai có tiền mà trả được mức lương ấy đâu). Bấy giờ chỉ chưa đến 10 đồng một chỉ vàng, mà mình nhận 1.400 đồng, tức là 14 cây vàng/tháng. Nuôi vợ con với lại ăn nhậu thoải mái!


Bảy Nhu hồi tưởng quá khứ với giọng mệt mỏi nghe như vọng từ âm phủ. Bây giờ, Bảy Nhu đã ngoài 80 tuổi, ở tuổi ấy, như người ta nói, quỷ thần không chấp nhặt họ nữa. Có người bảo sao độc ác như vậy mà Bảy Nhu vẫn sống. Nhưng tôi nghĩ: ông ta phải sống để chứng kiến lòng nhân ái của con người trên mảnh đất này đối với ông ta, sống để những ký ức đen đầy máu chảy hành hạ ông ta.

Cho dù ông ta ăn chay trường và niệm Phật cũng chưa chắc đuổi được quỷ sứ ra khỏi con người mình. Tôi cảm thấy nhẫn tâm hỏi về cái ác, cái việc đóng 16 cái đinh dọc một cơ thể người, đóng đinh to, cắm phập sâu hoắm đến mức mấy chục năm sau khi Nhà nước ta tổ chức đào hố chôn tập thể lên, những cái đinh vẫn còn nguyên.

Bảy Nhu im lặng, ông ta kể về việc chúng nó dùng ván có đinh tra tấn người, về việc có người bị đánh chân tay gẫy cù lìa làm hai ba đoạn, có khi nó xé người ta làm bốn mảnh. Chúng nó chứ không phải là Bảy Nhu. Sẽ không ai bất ngờ khi ông Nhu nói thế và thậm chí phủ nhận nhiều tội ác của mình - dẫu rằng đã có hàng nghìn tù nhân sống sót mà không có mắt cá chân, không có răng, mù mắt, tàn phế đã về lại Di tích Nhà tù Phú Quốc và tố cáo Bảy Nhu cùng đồng bọn…

Tôi cũng không bất ngờ khi trích các báo cáo truy tìm hài cốt của Sở LĐTB&XH Kiên Giang năm 2008 (với các trường đoạn viết về các di cốt vĩnh viễn không bao giờ được tìm thấy, bởi ban cai quản nhà tù Phú Quốc đã lùa các tù binh lên máy bay, ném xuống Vịnh Thái Lan) cho Bảy Nhu nghe, ông ta thở hắt như đuổi khách: “Hồi xưa máy bay quân sự là của Mỹ thôi ấy, toàn là người Mỹ lái chứ bọn tôi lái đâu mà chúng tôi biết”.

Tôi rời bỏ ngôi nhà của Bảy Nhu như một đứa trẻ chạy khỏi ngôi nhà của một con quỷ trong nỗi kinh hãi tưởng vỡ cả trái tim. Không ai có thể cầm lòng về những người con đấu tranh cho tự do và độc lập của dân tộc đã bị tra tấn vô cùng man rợ ở hòn đảo này.

Tôi biết rằng, tôi sẽ không bao giờ có đủ can đảm để trở lại ngôi nhà của Bảy Nhu nữa cho dù ở đó có một Bảy Nhu già nua đang từng ngày từng đêm sống với những hồi ức đen đầy máu và tự đày đọa mình bằng chính tội ác của mình.

Bây giờ, thi thoảng tôi vẫn gặp những cơn ác mộng và thấy cảnh những cai ngục nhà tù Côn Đảo vặn những chiếc răng của những tù nhân ở đó. Những hành động ấy chỉ là của những con quỷ ác độc. Có ai, hay có kẻ nào biện hộ cho những hành động thú tính ấy không?

Nhưng dân tộc này đã tha thứ cho một trong những ác quỷ đó – Bảy Nhu. Với tất cả những gì Bảy Nhu đã làm với những con người bị giam cầm ở Côn Đảo thì ông ta đáng bị tử hình 10 lần. Nhưng Cách mạng và nhân dân đã tha tội cho ông ta, nghĩa là đã hồi sinh cho ông ta 10 lần

Theo hồ sơ lưu trữ, ở Trại giam tù binh Cộng sản Việt Nam Phú Quốc, có 24 ngón đòn tra tấn cực kỳ hiểm ác được bọn chúng đúc kết kinh nghiệm và ghi chép thành văn bản để chuyền tay nhau học tập, thực hành. Trong đó, có ngón đòn đục răng là khủng khiếp nhất, man rợ nhất. Và Thượng sĩ Nhu được bầy ác quỷ ở các khu giam tôn làm sư phụ của ngón đòn này.

Anh Nguyễn Minh Hoàng - cựu tù Phú Quốc, hiện sinh sống ở thành phố Biên Hòa - Đồng Nai, bị tên Thượng sĩ Nhu đục mất hai chiếc răng trong thời gian ba ngày ba đêm. Anh bảo với tôi: “Bọn chúng cùm tay cùm chân rồi lấy hai mảnh ván bắt ốc vít siết ép ngực cho há miệng ra. Và sau đó, tên Thượng sĩ Nhu dùng đồ nghề chạm khắc các mặt hàng thủ công mỹ nghệ để đục răng tôi. Gã làm nhẩn nha như là giỡn chơi nhưng đau nhói buốt tận óc, khiến tôi chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần...”. Rất nhiều tù nhân thân thể tiều tụy khi bị tra tấn bằng ngón đòn đục răng đã phải từ giã cõi đời vì không sao chịu đựng nổi. “Gã đục răng tù nhân để dành được cả mấy bơ sữa bò rồi kết lại thành chuỗi tràng hạt đeo tòng teng trên cổ, ngó giống hệt Sa Tăng đeo xâu đầu lâu trên người trong truyện Tây du ký !”. Anh Nguyễn Minh Hoàng kể.

(Trích tác phẩm đã công bố của tác giả Nguyễn Tam Mỹ)

Ảnh của nhân chứng lịch sử 30-4-1975 Nguyễn Đình Đạt (II)

Xem trước: Ảnh của nhân chứng lịch sử 30-4-1975 Nguyễn Đình Đạt

Sau ngày Miền Nam hoàn toàn Giải Phóng,chúng tôi gặp nhau và kể từ ấy ...biết bao nhiêu thay đổi,mời các bác xem hình cho vui nhé.
tháng 8-1975,buổi tối trời mưa đứng trên balcon nhà mình tại 181 Đồng Khởi (đối diện K/S Continental) lúc đó đường vẩn còn mang tên Tự Do và xe chạy hai chiều,nay là đường Đồng khởi 
[​IMG]

Đạt và bà xã ngày ấy.Hôm đó hình như bị cúp điện
[​IMG]

khoản 19h thì đường phố sẻ không còn người nào,nếu không được phân công nhiệm vụ của Ban Quân Quảng.
xăng củng không còn bán tự do nên có xe hơi thì củng vứt bỏ,bán thì rẻ mạc cở hai chiếc xe đạp mà thôi,lúc này xe đạp quý lắm,nằm mơ củng không thấy. 
Góc đường vẩn còn bản đường Tự Do Ks Continental ngày ấy.
[​IMG]

chỉ vài ngày sau giải phóng,người dân đem những đồ coi là không cần thiết ra bán trước cửa nhà mình để lấy tiền mua gạo ăn qua ngày.

Ảnh: lần đầu tôi thấy thanh niên học sinh tụ họp cầm biểu ngữ theo hướng dẩn của cán bộ phụ trách thanh niên,đi tuần hành trên đường phố kêu gọi thanh niên tham gia học tập theo cách mạng.
góc trái ảnh là lá cờ giải Phóng nửa xanh nửa đỏ,ở giữa sao vàng.
bên dưới là người dân đem đồ nhà ra bán lấy tiền.
[​IMG]

Cuộc sống của người dân,luôn quan tâm theo dõi tin tức báo chí,rất nhiều người phải ra đường mưu sinh bằng nghề đạp xích lô.nhìn bác này tôi nhận xét :không phải chuyên nghiệp
ảnh chụp trước cửa nhà KS Continental
[​IMG]


Kể từ đó,lệnh giới nghiêm từ 20h đến 6h sáng được thông báo trên radio,ti vi đen trắng phát sóng từ 19h đến 20h sau đó dần dần được tăng lên nhiều giờ hơn.

cuộc sống bị đảo lộn,không riêng ai mọi người đều lo lắng cho miếng ăn 2 bửa hàng ngày.
một ngày không có gạo thì sẻ ra sao?một tuần,một tháng thì sẻ như thế nào.có trong hoàng cảnh đó mới thấu hiểu,

Hôm nay,lục lại hình xưa những ngày tháng đó thì cảm súc của tôi thật khó tả,mùi giấy ảnh mấy chục năm vẩn còn nguyên,đúng cái mùi ngày xưa tôi hửi thường xuyên mỗi ngày khi làm ảnh.

một thời gian mấy tháng không có gì để làm ngoài ăn 2 bửa cơm,buồn chán,lo sợ cho những ngày tới..

[​IMG]

xuốc ngày ở trong nhà,không dám ra xa nhà,tuổi lúc ấy còn quá trẻ nên chỉ biết ngồi nghe nhạc cho đở buồn nhưng không được nghe nhạc VN chế độ củ.

[​IMG]




[​IMG]Hình ảnh này : các cảnh sát giao thông chế độ củ được mặt quân phục cảnh sát giao thông màu vàng của chế độ mới để điều hoà giao thông trong thành phố. Có khác biệt là không được trang bị súng,và không có quân hàm cấp bậc

Sau ngày 30-4-1975,các nhà hàng khách sạn hầu như đóng cửa hết.Chỉ những khách sạn do nhà nước quản lý hoạt động thì chỉ để tiếp đón các đoàn khách quốc tế của nhà nước và các cơ quan được phép đối ngoại.ngưòi không phận sự thì tuyệt không được nói chuyện ,dao du với người nước ngoài.
ăn chơi nhảy múa thì đừng nghĩ tới,những năm sau ấy cấm khiêu vũ ,dancing,nhảy đầm.
Bia bọt thì chỉ vô của hàng quốc doanh,ép buột mua một dĩa mồi thì được mua kèm 2 chai bia.và ở đâu củng vậy,thời gian sau các cửa hàng có cạnh tranh nên treo bản: một đỉa 3 chai 

còn hình này là tại khách sạn Quốc Tế REX Quốc tế có nghĩa là chỉ dành cho khách quốc tế.VN thì đừng bén mãn tới.K/S được canh gác cẩn mật.
khi có đoàn khách Quốc Tế thì sẻ có ban nhạc phục vụ và chỉ ca hát những bài hát trong khối xã hội chủ nghĩa,nhạc cách mạng mà thôi.

người ngồi cầm đàn Violon là bà xã của Đạt và Nhạc sĩ Hoàng Trọng ngồi bên
phía sau là nhạc sĩ Lê Đô nhạc trưởng ,là bố của bà xã Đạt
Khách Sạn REX 1978
[​IMG]
Ngày ấy,tuy còn trẻ nhưng lại đi cái xe rất đắt tiền và củng may là rất mê nhiếp ảnh.Lúc nào củng máy ảnh.
Hình: khoản đầu năm 1975 trên đường nguyễn huệ,Đạt đang xem phim Slide
và xe là Peugeot 404 GL safari 1972
[​IMG]


Tại các nhà máy công nghiệp.
Công nhân bắc đầu đi làm việc lại.
thời ấy ai được làm công nhân viên nhà nước là điều thật hạnh phúc vì được cấp phát gạo và nhu yếu phẩm,nếu là dân thường thì chỉ được mua khoản 5kg gạo/người/tháng

[​IMG]


Công nhân nhà máy dệt Thắng Lợi.
[​IMG]

Đầu năm 1976,Tuy gia đình bên Nội thuộc diện có công với cách mạng,hai người bác và chú kế ba tôi là biệt động thành.đả hy sinh,có giấy chứng nhận Gia Đình Liệt Sỉ nhưng vì không có việc làm nên gia đình tôi phải ly tán các nơi.anh trai về Bến Tre quê vợ,em gái về Tây ninh quê chồng.
thông tin liên lạc bị cắt đức hoàn toàn,chỉ được gởi thơ qua đường bưu điện.
từ Bến tre thư về Saigòn nhanh cũng 10 ngày vì chờ duyệt!!!
những bức thư của anh trai tôi gởi về SG từ tỉnh bến tre cách SG 100km
[​IMG]


Em gái tôi về quê chồng tại Tây Ninh
đám con cháu bên chồng
[​IMG]

Đi lao động trồng bắp (ngô).năm đó,lương thực thiếu thốn mọi người phải ăn cơm độn khoai lang,khoai mì,bobo (hạt làm ra bột mì).đến lúc khó khăn hơn nữa thì cắt giãm lương thực,(gạo) chỉ còn 20 ngày ăn.các cơ quan phải cho CBCNV đi lao động tăng gia sản xuất để có thêm lương thực gọi là chương trình tự túc lương thực 10 ngày trong tháng.

Những chiếc xe tải thùng hiệu Desoto chở chúng tôi đến khu vực trường bắn Thủ Đức để trồng bắp.xe không có băng ghế gì cả,đứng ngồi thoải mái nhưng nóng kinh khũng .
[​IMG]

Tới nơi,mọi người tập trung nghe phân công .

[​IMG]




[​IMG]


Trước khi lao động,mọi người cùng hát lên bài hát..lâu quá quên mất tên rồi
][​IMG]

[​IMG]

mọi người lao động cật lực,không đủ dụng cụ thì dùng tay luôn.
[​IMG]


Những cô gái SaiGon có lẻ không quen với công việc đồng án nên một số người trông thật bơ phờ và có nhiều người đã ốm nặng sau đó

[​IMG]
----------------------------- Tự động gộp bài viết ---------------------------
Đại Hội Xã Viên Hợp Tác Xã ngành thủ công mỹ nghệ tại huyện thống Nhất tỉnh Đồng Nai năm 1976
Tất cả các hộ kinh doanh tư nhân đều vào Hợp Tác Xã
[​IMG]

Một diễm phúc to lớn khi mọi người ước ao được làm CBCNV nhà nước.
Nếu không có việc làm thì phải đi Kinh Tế Mới tức là lên rừng tìm vùng đất hoang để khai phá sinh sống lập nghiệp
Đầu năm 1976 Đạt được bảo lảnh vào làm cong nhân lái xe cho Tổng Nha Ngoại Thương.Đạt ngồi hàng đầu bên trái.
[​IMG]


Cuộc sống đả từ từ thay đổi,chúng tôi cảm thấy hạnh phúc hơn
[​IMG]

[​IMG]

trồng được cây nho tại nhà 1984
[​IMG]

Sau ngày Miền Nam Giải phóng nối liền hai miền Nam Bắc nhưng đi lại còn rất khó khăn,xe khách chưa có,đi đường phải có giấy phép của chính quyền hoặc đơn vị đang công tác.Ngày ấy tôi đả được nhận vào làm việc cho cơ quan nhà nước,nhờ vậy nên đựoc đi đây đó khắp nơi từ Nam tới Bắc nhìn đựoc toàn cảnh đất nước sau chiến tranh và luôn kèm theo cái máy ảnh(vật bất ly thân)để ghi lại những hình ảnh cho mai sau.tuy nhiên thời ấy phim chụp ảnh rất hiếm.Một đám cưới chỉ dám sử dụng 1 cuộng phim đen trắng là quý lắm rồi,có khi chỉ vài ba ảnh là cùng nhưng củng nhờ những hình ảnh tư liệu của mình tôi đả được thưởng những thước phim cuộn 35mm loại dùng cho máy quay phim tài liệu do TTXVN cung cấp.
Thành Nội Huế,tháng 2-1977
[​IMG]


[​IMG]


Thành nội lúc này chưa được trung tu bảo quản .đường phố,hàng quán vắng tanh
[​IMG]

Lái xe liên tục 4 ngày 3 đêm,mệt thì ăn nghĩ dọc đường vì khi đi đả chuẩn bị gaovà lương thực khô.Xăng phải chở đủ cho chuyến đi vì dọc đường không có bán xăng.thời đó,cơ quan nhà nước tuyệt đối không cấp tiền mua xăng chợ đen.Đường đi rất sấu,có những đoạn phải qua suối ngầm vì chưa có cầu và luôn có xe quân đội túc trưc để kéo xe qua suối ngầm
Cuối ngày thứ tư của chuyến hành trình,được nhìn thấy Hànội.năm ấy mình được 22tuổi,và người Hànội thật hiếm hoi khi thấy người thanh niên Saigòn sau ngày Giải Phóng.
Nhớ lại,mình được ăn ở theo tiêu chuẩn khách,sử dụng nhà vệ sinh riêng biệt dành cho khách!!
Chụp tại trước cửa cơ quan tại 37 Lý Thường Kiệt Hànội
[​IMG]


Hồ Hoàng Kiếm,gần như vắng bóng người
[​IMG]


[​IMG]

Cách trung tâm HàNội 5km
[​IMG]

Thật vinh dự,khi được cơ quan làm thủ tục liên hệ cho mình vào thăm Lăng Bác.khi ấy người Hànội vẩn chưa đựoc tự do vào thăm Lăng Bác,phải đăng ký rất khó khăn vì Lăng củng mới chỉ cho khách Quốc tế khối XHCN và các đoàn thể cấp cao trong nước (không được chụp ảnh trong Lăng Bác)
[​IMG]

Năm ấy gần tết 1977 trời rất lạnh nhiệt độ còn 7 độ ,học sinh được nghỉ học.Đường phố vẩn vắng tanh!
[​IMG]

Kết thúc chuyến đi,để xe lại HàNội tôi được trở về bằng máy bay (IL18 với 4 động cơ chong chóng của Liên Xô)với món quà đem về Saigòn là cành Đào Nhật Tân.
Nhất định mang bằng được cành đào khi máy bay không cho chở và củng chưa có ai chở cây đào vào Nam năm ấy.Cuối cùng tôi được giải quyết cho ôm lên khoang máy bay và giao cho cô tiếp viên quản lý.Xuống sân bay ,mọi người trầm trồ và hỏi mua với giá rất cao nhưng minh vẩn không bán và đem về nhà tặng Gia Đình.Hôm ấy đúng ngày 28 tết.Nhớ lại,mẹ tôi và rất nhiều người rất vui mừng khi nhìn thấy cành đào sau bao năm chia cắt đất nước
Những thành viên hội Nhiếp Ảnh (Hội Văn Nghệ TP.Hồ Chí Minh)1977

Đạt đứng ngoài cùng bên trái ảnh
[​IMG]

Nghệ sỉ nhân dân Diệp Minh Châu đang vẽ tranh chân dung cho bà xã Đạt trong dịp triển lãm ảnh nghệ thuật Vì Tuyến Đầu Tổ Quốc 1979
[​IMG]


[​IMG]


[​IMG]
----------------------------- Tự động gộp bài viết ---------------------------
Vường Tao Đàn năm 1979.
[​IMG]


Bà xã và con gái đầu (1979)
[​IMG]


[​IMG]



[​IMG]

Truyền hình màu đầu tiên tại VN 1986
đời sống dần lên cao,mua được cái Tivi màu Thomson nhản hiệu của pháp nhưng truyền hình chỉ phát trắng đen sau đó phát thủ 1 giờ vào các ngày thứ 7 hàng tuần.canh me mãi mới chục được tấm ảnh này,thật là hạnh phúc .
[​IMG]

một chuyến công tác tại Daklak 1986
Dinh Bảo Đại được làm nhà khách Tỉnh Uỷ
[​IMG]

Chiếc xe Mec 280 SE đời 1975 mới 100% của phủ tổng thống chế độ củ duy nhất tại VN.
Người lái đầu tiên sau giải phóng là ông Phạm Phú Ngọc Trai sau đó ông về làm Tổng Giám Đốc IBC Pepsicola.do vậy nên ông trai được cư dân mạng coi là người chỉ dùng xe Mec cho tới nay mà chẳn hiểu nguyên do từ đâu.
[​IMG]