11 tháng 2 2012

Sau khi Thủ tướng kết luận vụ Tiên Lãng

http://dinhphdc.multiply.com/notes/item/160

(Dân Việt)

- Ngay trong lúc xem chương trình thời sự của VTV1 tối 10.2, chị Nguyễn Thị Thương - vợ anh Đoàn Văn Vươn và chị Phạm Thị Báu (vợ anh Đoàn Văn Quý) đã ôm nhau òa khóc nức nở. Những giọt nước mắt mừng vui thật khó tả.

“Cảm ơn Chính phủ, cảm ơn các bác ở Trung ương, cảm ơn các cơ quan báo chí đã cứu sống gia đình tôi” - chị Thương nghẹn ngào nói.

Khi chương trình thời sự vừa kết thúc, chị Thương và chị Báu chạy ào ra chợ để mua đồ ăn về ăn mừng. Đi đến đâu, hai chị cũng nhận được lời chúc mừng của bà con làng xóm. Họ chia vui với gia đình chị.

Gia đình chị Thương vui mừng trước kết luận của Thủ tướng (ảnh chụp tối 10.2).

Nhiều người, trong đó có các chủ đầm tự vui với chính mình vì tới đây họ lại được làm chủ, yên tâm sản xuất trên mảnh đất thấm đẫm mồ hôi của chính mình. Không khí ở Vinh Quang, không khí ở Hải Phòng khi nghe thông tin thời sự tối 10.2 vui như ngày hội.

Họ chúc mừng gia đình anh Vươn, họ chúc mừng nhau. Họ chúc mừng cho công lý đã được thực thi. Hoan hô Chính phủ. Hoan hô Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng… là những lời nói mà chúng tôi ghi nhận được không chỉ từ người dân Tiên Lãng mà ở rất nhiều người dân TP.Hải Phòng.

Giờ phút này chị nghĩ đến điều gì? – Chúng tôi hỏi chị Thương - “Tôi đang nghĩ đến chồng tôi và chú Quý. Không biết anh em họ đã được biết tin vui này chưa! Nhà tôi đã được bảo vệ tài sản, sẽ lấy lại được đầm nhưng còn anh em họ sẽ bị xử lý như thế nào vẫn là mối lo lớn nhất của tôi.

Vẫn biết là Thủ tướng đã chỉ đạo cơ quan chức năng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho anh ấy vì lý do anh ấy phạm tội là do các việc làm sai của huyện nhưng dù sao chắc anh ấy vẫn phải đi tù. Mà ở tù ngày nào là khổ ngày ấy. Gia đình tôi mong các luật sư, các nhà báo tiếp tục bên cạnh chúng tôi để bảo vệ anh ấy”.

09 tháng 2 2012

Truyền hình đưa tin như thế nào về vụ cưỡng chế ở Hải Phòng? | Báo Giáo dục Việt Nam

http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Truyen-hinh-dua-tin-nhu-the-nao-ve-vu-cuong-che-o-Hai-Phong/107342.gd

Thứ năm 09/02/2012 10:37

(GDVN) -Có những bản tin tập chung vào việc cung cấp thông tin cho khán giả, nhưng cũng có những bản tin được cho là "dắt mũi" công chúng của mình.

Trí phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ

Chúng ta thường nghe giới chóng cọng rêu rao rằng:

"Phú Trí Địa Hào
Đào tận gốc trốc tận rể"

Và "Phong trào “Xô Viết Nghệ Tỉnh” là cuộc nổi dậy đầu tiên do Đảng Cộng Sản lãnh đạo với khẩu hiệu “Trí, phú , địa , hào, phải đào tận gốc trốc tận rễ” tức là cứ theo thứ tự bất lợi cho cách mạng thì tầng lớp trí, được “ưu tiên” rồi đến ,phú địa, hào đều phải được giết sạch thì thành phần vô sản mới có thể đẩy mạnh phong trào Cộng Sản trên khắp cả nước"

Hà Sỹ Phu còn làm bài vè:
"Bốn anh Trí Phú Địa Hào
Chỉ riêng anh Trí lao đao đến giờ
Đảng ta thương Trí ngu ngơ
Cho Công – Nông - Trí chung cờ liên minh
Trông lên Liềm - Búa hai hình
Trí ta vẫn chẳng thấy mình ở đâu
Quay sang tìm Phú, Địa, Hào
Thấy ba bụng phệ… đã vào… Đảng ta!"

Thế nhưng, có thật như thế?

Liền sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cao trào cách mạng 1930-1931 diễn ra rầm rộ trên quy mô cả nước mà đỉnh điểm là Xô viết Nghệ Tĩnh. 

Nhiều công trình nhỏ, to của các học giả trong và ngoài đã đề cập đến sự kiện này dưới nhiều góc độ khác nhau. Từ hôm nay, thập niên thứ hai của thế kỷ XXI với độ lùi trên 80 năm, chúng ta bình tĩnh, khách quan nhìn lại sự kiện trọng đại đó.

Nhìn lên bản đồ nước Việt chúng ta, Nghệ Tĩnh là giải đất hẹp nằm kẹp giữa một bên là dãy Trường Sơn và một bên là biển Đông. 

Đây là mãnh đất không được thiên nhiên ưu đãi, nắng lắm, bão tố, lụt lội nhiều. 

Yếu tố địa quy định tính cách con người quần tụ nơi đây. 

Họ muốn trụ được và tồn tại trên mãnh đất này trước hết là họ phải cố kết thành những cộng đồng người để chinh phục thiên nhiên. 

Dần dà trong cộng đồng người đó hình thành một tính cách căn bản – bất khuất trước thiên nhiên khắc nghiệt. 

Nét đặc trưng đó của người xứ Nghệ trở thành một tài sản tinh thần vô giá - bất khuất trước cường quyền, bất công trong xã hội. 

Xem trong lịch sử xứ Nghệ, chỉ thời kỳ lịch sử cận hiện đại thôi, cũng đầy những bằng chứng về sự bất khuất trước sự xâm lược của ngoại bang và trước cường quyền. 

Khi ở đây chưa có thực dân Pháp, Trần Tấn và Đặng Như Mại đã dựng cờ nghĩa với lời thề chém đá: “Phen này quyết đánh cả Triều lẫn Tây”. 

Và khi kẻ thù xuất hiện, người Nghệ Tĩnh đã hội tụ, chiến đấu dưới lá cờ nghĩa của Phan Đình Phùng trong phong trào Cần Vương từ đầu chí cuối. 

Trong phong trào chống thuế Trung Kỳ 1908, phong trào chống thuế khi vượt qua Đèo Ngang đã nhuốm màu bạo động. 

Rồi người xứ Nghệ xốc tới cao trào cách mạng năm 1930 như ta đã thấy. 

Cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh diễn ra trong bầu không khí cách mạng đã được hâm nóng từ phong trào chống thuế Trung Kỳ năm 1908 và cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học tháng 2 năm 1930. 

Có lẽ, con người trên mãnh đất này không thích thỏa hiệp, chỉ thích quyết đấu. Nó là sản phẩm của lịch sử hàng nghìn năm. 

Nó như con dao hai lưỡi, tốt ở hoàn cảnh này, nhưng không tốt trong trạng huống kia. 

Những biểu hiện hướng tả trong cải cách ruộng đất, trong duy ý chí thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội qua câu nói nổi tiếng gần xa của Bí thư Huyện ủy Quỳnh Lưu Nguyễn Văn Đợi: “Mo cơm, quả cà và tấm lòng cộng sản

Nếu như phong trào chống thuế diễn ra ở các tỉnh miền Trung, hoạt động của Việt Nam Quốc dân Đảng diễn ra rời rạc với thời gian tồn tại vài ba tháng ở các tỉnh châu thổ sông Hồng và trung du Bắc Kỳ, thì cao trào cách mạng 1930-1931 diễn ra trên một năm với cường độ mạnh ở 25 tỉnh thành khắp trên cả nước và đạt tới đỉnh điểm trên đất Nghệ Tĩnh bằng việc thiết lập chính quyền của những người bị áp bức, bóc lột, khác xa với các loại chính quyền hiện thời và trước đó, để lại những ký ức khó phai mờ trong lòng người dân đất Việt và hơn thế nữa để lại một hình mẫu chính quyền mà dân ta muốn hướng tới.

Một vấn đề đặt ra là một mô hình chính quyền hợp lòng dân đó sao lại chỉ có thể đứng vững trong một thời gian ngắn? 

Đó là một câu hỏi khó mà xưa nay các nhà khảo cứu đã tìm cách giải mã, nhưng đều chưa thỏa đáng, chỉ có thể làm thỏa mãn câu hỏi đặt ra đó khi ta tiếp cận từ nhiều khía cạnh, đặc biệt từ hai khía cạnh quan trọng nhất: lực lượng nào dẫn dắt nó và môi trường sinh ra nó.

Các cương lĩnh chính trị của Đảng như "Chánh cương vắn tắt" và "Luận cương chánh trị" của Đảng năm 1930 và cả trong "Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng" của Nguyễn Ai Quốc đều cho rằng chính thể cách mạng của giai đoạn đầu là Chính phủ công nông binh. 

Đó là chủ trương không phù hợp với thực tiễn Việt Nam. 

Có ý kiến cho rằng mô hình nhà nước công nông binh, chính quyền Xô viết ở Nghệ Tĩnh, các công hội đỏ, nông hội đỏ, tự vệ đỏ và khẩu hiệu “trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ” là sản phẩm của "Luận cương chánh trị". 

Ý kiến ấy là không đúng, không khách quan. 

Vì "Luận cương chánh trị" đến tháng cuối tháng 10-1930 mới được thông qua, trong khi đó, cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh đến tháng 10-1930 đã tới đỉnh cao và chuyển sang sang thoái trào. 

Chủ trương thành lập chính phủ công nông binh nếu là giáo điều, “tả” khuynh thì đó điều đã ghi ở "Chánh cương vắn tắt" và trong "Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng" của Nguyễn Ái Quốc rồi.

"Chánh cương vắn tắt" cho rằng “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa c.m đánh trúc bọn bọn đại địa chủ và phong kiến”. “Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thỉ phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản c.m (Đảng Lập hiến, v.v...) thì phải đánh đổ”. “Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp...”(1). “Không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác”(2). 

Đoạn trích đó thể hiện "Chánh cương vắn tắt" có quan điểm giai cấp rất “rạch ròi”, có sự phân biệt và “dè dặt” trong tập hợp lực lượng cách mạng.

"Luận cương chánh trị" ghi: “bọn tư bổn thương mại… đứng về một phe với đế quốc chủ nghĩa và địa chủ mà chống cách mạng. Bọn tư bổn công nghệ…vì sức lực yếu kém, có dính dáng với địa chủ, sợ phong trào vô sản ... cho nên chúng nó không thể đứng về quốc gia cách mạng mà chỉ đứng về mặt quốc gia cải lương”. “Bọn thủ công nghiệp thì thái độ của chúng nó đối với cách mạng rất do dự”. Bọn tiểu thương thì không tán thành cách mạng, bọn trí thức, tiểu tư sản, học sanh,v.v “hăng hái cách mạng nhưng chỉ lúc đầu”(3).

Những điều đó chứng tỏ "Luận cương chánh trị" chưa thực sự coi trọng vai trò và khả năng cách mạng của tầng lớp trí thức, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, trung và tiểu địa chủ ở một nước thuộc địa. 

Chưa thực sự coi trong, song không hẳn là “tả” khuynh. 

Vì nếu “tả” khuynh như một số người hiểu thì làm sao Trung ương Đảng lại có sự phê phán Xứ ủy Trung kỳ là: “Xứ ủy Trung Kỳ, nhất là đồng chí Bí thư, ra chỉ thị thanh Đảng viết rõ từng chữ: thanh trừ trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rẽ, như vậy thì gốc đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà trốc, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ đoán và là một lối hành động quàng xiên chi tướng”(4).

 Chân dung đồng chí Trần Phú - Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng (Nguồn: Internet)

Đồng chí Trần Phú sinh năm 1904, con một nhà quan nho học có lòng yêu nước, thương dân, lên 4 tuổi đã mồ côi cha, lên 6 tuổi mồ côi mẹ,  9 tuổi mới được đi học nhưng học rất giỏi. 18 tuổi (1922), đỗ thủ khoa kỳ thi Thành chung Trường Quốc học Huế và đi vào nghề dạy học, đó cũng là thời kỳ bắt đầu tham gia các hoạt động yêu nước.

Trần Phú lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan. Vào những năm đầu thế kỷ XX, nhất là những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp ngày càng gia tăng áp bức, bóc lột thuộc địa. Sưu cao, thuế nặng và lao dịch hà khắc đổ lên đầu dân bản xứ. Các phong trào yêu nước bị đàn áp dã man. 

Ngay từ những năm còn ngồi trên ghế nhà trường, Trần Phú đã cảm nhận được những gì đã xảy ra. Cha của anh - cụ Trần Văn Phổ - một đương kim tri huyện của chính phủ Nam triều đã tự vẫn trước công đường để phản đối sưu dịch nặng nề và lệnh đàn áp của chính quyền thực dân phong kiến, cũng là để bày tỏ thái độ không cam chịu thân phận làm nô lệ ở chốn quan trường. 

Bản thân Trần Phú, lúc bước vào nghề dạy học, đã từng được một thầy giáo cũ của mình, gửi tặng hai câu thơ của một nhà chí sĩ thời đó:

"Sinh ư nô lệ sinh do tử
Tử yếu tự do tử nhược sinh"

Có nghĩa:

"Sống mà nô lệ, sống như chết
Chết vì tự do, chết là sống"


Truyền thống gia đình và quê hương đã nung nấu trong Trần Phú tinh thần yêu nước, chí hướng làm cách mạng. Không theo con đường học để làm quan, Trần Phú chọn nghề dạy học, rồi làm cách mạng chuyên nghiệp. 

Năm 1925, cùng một số đồng chí khác, thành lập Hội Phục Việt (sau đổi là Hội Hưng Nam). 

Năm 1926, bước ngoặt lớn đã diễn ra sau khi Trần Phú được cử sang Quảng Châu dự lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc giảng dạy, được bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, được kết nạp vào Cộng sản Đoàn - hạt nhân của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên. 

Năm 1927, được cử sang Liên Xô, học ở Trường đại học Phương Đông. Cuối năm 1929, được Quốc tế Cộng sản cử về nước hoạt động. 

Thế là, giống như Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú đã từ chủ nghĩa yêu nước tiến tới bắt gặp lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và suốt đời trung thành với lý tưởng đó. Tinh thần yêu nước và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa hòa quyện vào nhau tạo nên một động lực tinh thần to lớn của cách mạng Việt Nam.

Tháng 10/1929, cùng với Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú bị tòa án Nam triều kết án tử hình vắng mặt vì “tội” làm cộng sản. Cộng sản lúc bấy giờ không còn là bóng ma ám ảnh mà đã trở thành nỗi sợ hãi thật sự của chính quyền thực dân, phong kiến.

Bất chấp sự săn lùng của kẻ thù, từ Mátxcơva, Trần Phú vẫn tìm đường về nước, hoạt động ngay giữa lòng địch ở Hà Nội và Sài Gòn, tham gia lãnh đạo xây dựng Đảng và có nhiều công lao suốt cả năm 1930 và những tháng đầu năm 1931.

Năm 1930, ngay sau khi về nước, được bổ sung vào Ban Chấp ủy lâm thời và được giao dự thảo "Luận cương chánh trị" của Đảng, đồng chí Trần Phú khẩn trương xúc tiến tổ chức các cuộc trao đổi với các đồng chí lãnh đạo trên các lĩnh vực, các vùng và nghiên cứu, khảo sát thực tế tại Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Hòn Gai (Quảng Ninh), Thái Bình… 

Chỉ trong vòng 3 tháng, Trần Phú đã hoàn thành bản dự thảo  "Luận cương chánh trị" để Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 10/1930) thông qua, được Hội nghị lần thứ nhất của Trung ương bầu làm Tổng bí thư.

"Luận cương chánh trị" của Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí được Đảng giao soạn thảo, được thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 10-1930), chỉ rõ: “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương, và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản”(5). 

"Luận cương chánh trị" chỉ rõ tính chất cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền, do giai cấp công nhân lãnh đạo. 

Nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc, người cày có ruộng, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. 

"Luận cương chánh trị" cũng chỉ rõ nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Đông Dương là sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản có đường lối chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên hệ với quần chúng…

"Luận cương chánh trị" đã vận dụng những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa và những luận điểm cơ bản trong "Chánh cương vắn tắt" và "Sách lược vắn tắt" do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được thông qua Hội nghị thành lập Đảng. 

"Luận cương chánh trị" cùng với "Chánh cương vắn tắt" và "Sách lược vắn tắt" thực sự là ngọn cờ chiến đấu của Đảng ta thời dựng Đảng.

Trong Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương, tầm quan trọng của kỷ luật Đảng đã được khẳng định: “Cái trách nhiệm của đảng viên và các đảng bộ là giữ theo kỷ luật của Đảng một cách rất nghiêm khắc. Tất cả đảng viên phải chấp hành các nghị quyết của Q.T (Quốc tế Cộng sản) của Đảng Đại hội, của Trung ương, của các thượng cấp cơ quan. Trước khi chưa nghị quyết thì tất cả các vấn đề ở trong Đảng đều được tự do thảo luận”(6). 

Để kịp thời đối phó với âm mưu thâm độc của kẻ thù và uốn nắn những lệch lạc “tả khuynh” cũng như “hữu khuynh”, tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 3-1931), đồng chí Trần Phú đã phê phán chủ trương “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” là sai lầm và kiên quyết chỉ đạo khắc phục, góp phần xây dựng, củng cố tổ chức Đảng, kỷ luật của Đảng, lấy lại lòng tin trong nhân dân để tiếp tục tập hợp và xây dựng lực lượng cách mạng. 

Trong giai đoạn đó, tổ chức, kỷ luật của Đảng được chú trọng củng cố, vai trò lãnh đạo của hệ thống tổ chức Đảng ngày càng được khẳng định trong đấu tranh cách mạng. 

Vì vậy, ngày 11-4-1931, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ra Nghị quyết công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một chi bộ trực thuộc Quốc tế Cộng sản.

Ngày 18/4/1931, Tổng Bí thư Trần Phú bị địch bắt, tra tấn dã man, đã trút hơi thở cuối cùng vào ngày 6/9 năm ấy.

Từ khi nhận nhiệm vụ Tổng bí thư cho đến khi bị địch bắt, thời gian không đầy 6 tháng nhưng Trần Phú đã làm rất nhiều việc trong chỉ đạo thực tiễn. 

Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 3/1931) đã phân tích, đánh giá sâu sắc phong trào cách mạng sôi nổi đang diễn ra khắp nơi, cả những ưu điểm và thiếu sót, đặc biệt là các phong trào nông dân ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Mỹ Tho, Bến Tre…

Về Xô Viết - Nghệ Tĩnh, Tổng bí thư một mặt đánh giá cao phong trào, mặt khác phê phán nghiêm khắc sai lầm của khẩu hiệu “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, coi đó là sai lầm “tả” khuynh, cô lập, hẹp hòi, tước bỏ bạn đồng minh, gây thêm khó khăn cho cách mạng. 

Có thể coi đó là sự phê phán có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong buổi đầu cách mạng.

Các hội nghị Thường vụ Trung ương do Trần Phú chủ trì còn ra nhiều quyết định cụ thể khác: Xuất bản báo Cờ vô sản và báo Cộng sản, làm cơ quan tuyên truyền và lý luận của Trung ương; tổ chức công tác giao thông liên lạc từ Trung ương đến các xứ ủy, tỉnh ủy và từ Trung ương đến Quốc tế Cộng sản; tiến hành công tác vận động công nhân và thành lập Ban Công vận Trung ương do chính Trần Phú làm Trưởng ban…

Do Ngô Đức Trí phản bội khai báo (xem Về những phần tử phản bội, chỉ điểm trong Cộng sản Đảng), Trần Phú đã bị bắt tại Sài Gòn ngay sau Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Bằng những thủ đoạn tra tấn cực kỳ dã man, thậm chí rạch da thịt, rồi nhét bông tẩm dầu mà đốt, kẻ thù hòng khai thác từ người đứng đầu Đảng ta nhiều điều bí mật, Trần Phú vẫn một mực không khai: “Ta không thể đem công việc của Đảng ta nói cho các người nghe” (7). 

Tại phiên tòa xét xử, mặc dù đã thừa biết tên thật người bị bắt, tên quan tòa vẫn gặng hỏi mãi. Trần Phú thản nhiên: “Ông đã tha thiết muốn biết tên tôi quá như thế, thì đây, tên tôi là Trần Phú” (8). Rồi im bặt, không thêm một lời nào nữa.

Gần 5 tháng bị giam cầm tại nhà lao, trước những đòn tra tấn dã man và chế độ nhà tù khắc nghiệt, cộng thêm bệnh lao tái phát, Trần Phú đã kiệt sức.

Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Trần Phú còn gửi tới các đồng chí, đồng bào lời nhắn nhủ: “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu!”.
 Tổng Bí thư Trần Phú.

Nghiên cứu tiến trình phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh ta có một nhận xét khái quát: những biểu hiện căn bệnh ấu trĩ tả khuynh chỉ xuất hiện vào lúc phong trào đang đứng trước sự tấn công điên cuồng của thực dân Pháp và bề lũ tay sai. 

Trong sự quyết đấu đó, để tiếp tục đưa phong trào tiến lên, những người cộng sản cần phải tỉnh táo đề ra những giải pháp uyển chuyển, thì trái lại, đưa ra giải pháp quá cứng rắn, không phải đối với kẻ thù, mà đối với chính những người lãnh đạo phong trào: “Trí, Phú, Địa, Hào; Đào tận gốc, trốc tận rễ”, từ đó dẫn tới Chỉ thị “ Thanh Đảng”, tức làm trong sạch nội bộ Đảng trước bước ngoặt của phong trào. 

Năm 1930 - 1931, Xô viết Nghệ Tĩnh là đỉnh cao nhất của phong trào cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. 

Mặc dù có rất nhiều thành tích, nhưng vẫn còn những biểu hiện tả khuynh, đặc biệt là vấn đề thanh Đảng, năm 1931, trước âm mưu khủng bố trắng của thực dân Pháp và phong kiến, đáng tiếc thay Xứ ủy Trung Kỳ đã phạm một số sai lầm tả khuynh. 

Dù thời gian xảy ra yếu điểm đó rất ngắn ngủi (khoảng một tháng) nhưng nó đã gây ra tổn thất cho phong trào bấy giờ: 

Chỉ thị thanh Đảng của Xứ ủy Trung Kỳ ra đời đầu tháng 4-1931. 

Trong chỉ thị này có câu “Trí phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”, “Đuổi sạch sành sanh ra ngoài hết thảy những bọn trí phú địa hào. Nếu đồng chí nào muốn làm cách mạng, tự nguyện đứng về phía giai cấp vô sản mà phấn đấu cũng không cho đứng trong Đảng.” 

Sau khi nhận được chỉ thị thanh Đảng, các đảng viên thuộc thành phần lớp trên không tránh khỏi đột ngột, đã gây tổn thất trong nội bộ Đảng.

Ta bắt gặp những trang hồi ký đẫm nước mắt của những người trong cuộc như bà Tôn Thị Quế khi đón nhận Chỉ thị đó. 

Bà Tôn Thị Quế, nguyên là Tỉnh ủy viên Nghệ An, người có công lớn trong công tác xây dựng cơ sở Đảng ở huyện Thanh Chương, Nam Đàn đã kể lại: “Khi nhận được quyết nghị hạ tầng công tác của Tỉnh ủy, tôi bàng hoàng cả người. Trở lại công tác ở Ngọc Lâm, lòng tôi vô cùng đau xót. Ngày đêm tôi không ăn, không ngủ được. Biết tôi là một cán bộ bị hạ tầng, quần chúng đối đãi khác hẳn.” (9)

Hoặc lời khai của Phan Sĩ Liêm: “ Vào cuối năm 1930, thiếu úy Trưởng đồn Thanh Quả đến nhà bắt tôi…Tôi trốn trong núi trước Võ Liệt…Tôi ở đấy đến đầu năm…thì Bí thư Chi bộ Yên Trường đến nói với tôi rằng có lệnh của Đảng cấm những người giàu và trí thức không được hoạt động và do đó tôi không còn thuộc chi bộ anh ta nữa” (10) 

Sự thái quá trong lý luận và thực tiễn thời Xô viết Nghệ Tĩnh không phải xa lạ, mà thuộc một căn bệnh thường gặp trong phong trào cộng sản quốc tế, căn bệnh “tổ tông”, đã được V.I. Lênin cảnh báo trong tác phẩm Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản xuất bản vào tháng 6 năm 1920. 

Trong tác phẩm đó, Lênin đã từng căn dặn những người cộng sản: “Chỉ có thể thắng một kẻ địch mạnh hơn bằng một nỗ lực hết sức lớn, và với điều kiện bắt buộc là phải lợi dụng một cách hết sức tỷ mỷ, hết sức chăm chú, hết sức cẩn thận, hết sức khôn khéo bất cứ một “rạn nứt” bé nhỏ nhất nào giữa các kẻ thù…cũng như phải lợi dụng mọi khả năng dù nhỏ bé nhất để có được một bạn đồng minh tạm thời bấp bênh, có điều kiện, ít chắc chắn và đáng tin cậy” (11) 

Căn bệnh đó xuất phát từ sự nhận thức không đến nơi đến chốn lý luận mác xít về chuyên chính vô sản và việc vận dụng máy móc nó vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng nước. 

Sự nhận thức không thấu đáo đó đã dẫn tới hai dạng tả khuynh khác nhau trên hai vùng của thế giới. 

Ở các nước phát triển lúc đầu xuất hiện khuynh hướng “tả”, rồi dần dần tới “cực tả”, được biểu hiện trọn vẹn trong chủ nghĩa Trốt xki, đề cao thái quá vai trò của giai cấp vô sản trong tiến trình cách mạng vô sản, điều đó dẫn tới chủ nghĩa biệt lập. 

Ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, như chúng ta, xuất hiện một khuynh hướng quá nhấn mạnh yếu tố giai cấp, hạ thấp yếu tố dân tộc trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc định hướng xã hội chủ nghĩa. 

Ở nước ta căn bệnh đó được biểu hiện sớm nhất trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh. 

Vậy phong trào này về tư tưởng chịu ảnh hưởng của lực lượng chính trị nào, của chính đảng nào? 

Từ trước tới nay trong các công trình nghiên cứu về phong trào cách mạng 1930-1931 chỉ thấy nói một cách chung chung là Đảng Cộng sản Việt Nam. 

Nói như thế có lẽ không hoàn toàn chính xác. 

Cao trào cách mạng này trước tiên chịu ảnh hưởng tư tưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng ở Bắc Kỳ. 

Cao trào này khởi phát từ cuộc đấu tranh của 3.000 công nhân ở đồn điền Phú Riềng dưới sự lãnh đạo của Trần Tử Bình, một trong những đảng viên thuộc chi bộ cộng sản đầu tiên ở Nam Kỳ, được Ngô Gia Tự, phái viên của Đông Dương Công sản Đảng , tổ chức. 

Tiếp đó là cuộc đấu tranh cuả công nhân Nam Định và Vinh - Bến Thủy là hai trung tâm công nghiệp ở Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ, địa bàn hoạt động của Đông Dương Cộng sản Đảng. 

Những phái viên của Đông Dương Cộng sản Đảng có mặt đầu tiên ở Vinh - Bến Thủy là Trần Văn Cung, Nguyễn Phong Sắc, tiếp đó là Nguyễn Đức Cảnh. 

Họ chính là những người sáng lập Chi bộ cộng sản đầu tiên trong nước và là trụ cột của Đông Dương Cộng sản Đảng. 

Như vậy, cao trào cách mạng 1930-1931- quy mô toàn quốc và phong trào Xô viết- quy mô địa phương, đều chịu ảnh hưởng trực tiếp của Đông Dương Cộng sản Đảng. 

Như chúng ta điều biết, thời Việt Nam cách mạng Thanh niên, Kỳ bộ thanh niên Bắc Kỳ là mạnh nhất, không chỉ đông hội viên hơn, mà mạnh về chất lượng và hoạt động thực tiễn. 

Đây là nơi sản sinh ra phong trào “vô sản hóa” góp phần đẩy nhanh quá trình kết hợp chủ nghĩa Mác-Lenin với phong trào công nhân. 

Vì thế, trên mảnh đất này những người lãnh đạo sau khi tiếp nhận các Nghị quyết của Đại hội VI Quốc tế Cộng sảng năm 1928, đã sớm nhận ra sự cần thiết phải thành lập Đảng Cộng sản. 

Họ đã thành lập Chi bộ cộng sản đầu tiên làm hạt nhân cho cuộc vận động đó. 

Khi vấn đề thành lập ĐCS mà họ nêu lên tại Đại hội I Thanh niên không được chấp nhận, họ bỏ đại hội ra về và công bố Tuyên ngôn giải thích cho hội viên lý do không tiếp tục dự đại hội. 

Nửa tháng sau, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập và thông qua những văn kiện nền tảng như Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ. 

Tuyên ngôn xác định tính chất của Đảng là: “Đảng cách mệnh đại biểu cho tất cả anh chị em vô sản giai cấp (tức là thợ thuyền) ở Đông Dương…Đảng CS là Đảng bênh vực cho toàn giới vô sản giai cấp, dân cày nghèo và tất cả những người làm lụng bi bóc lột và đè nén”.

Những vấn đề lý luận nêu lên trong các văn kiện có tính cương lĩnh của Đông Dương Cộng sản Đảng về căn bản là đúng, nhưng có nhiều điểm quá đơn giản và chưa chính xác, đặc biệt không nhận thức được yếu tố dân tộc, mà quá nhấn mạnh yếu tố giai cấp theo nhận thức không thấu đáo loại hình cách mạng ở các nước thuộc địa như chúng ta. 

Sự thiên lệch đó đã dẫn tới những biểu hiện tả khuynh và biệt lập trong đường lối và hành động thực tiễn. 

Điều này được biểu hiện rõ trong thái độ của Đảng đối với các giai cấp khác ngoài công nông. 

Chẳng hạn, đối với giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản không có sự phân biệt rạch ròi giữa địa chủ yêu nước và địa chủ phản động, giữa tư sản dân tộc và tư sản mại bản để có thái độ đúng nhằm phân hóa, lôi kéo họ về phia cách mạng hoặc đối với trí thức có những nhận định không đúng khi cho rằng “cách mạng càng tiến lên, thì tụi đó cứ dần dần lui về”. 

Với những tư tưởng chỉ đạo đó, Đông Dương Cộng sản Đảng giỏi lắm chỉ xây dựng được khối liên minh công nông, chứ không thể xây dựng được một mặt trận dân tộc thống nhất rộng lớn. 

Chúng ta hoàn toàn hiểu và thông cảm với họ, bởi lẽ Đông Dương Cộng sản Đảng vừa mới thoát thai từ Thanh niên cần phải tỏ ra là cộng sản, lấy tính giai cấp làm tiêu chí phân biệt, mà không thấy được vấn đề cốt tử là những người cộng sản ở các nước thuộc địa đang lãnh đạo nhân dân làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, vì thế yêu tố dân tộc ở đây là trên hết, trước hết, lợi ích dân tộc phải được đặt trên lợi ích giai cấp. 

Sự thiên lệch đó hay nói cách khác mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, đã được giải quyết thỏa đáng khi Hồ Chí Minh trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng. 

Từ đó chúng ta mới có Mặt trận Việt Minh và dẫn tới thắng lợi trong cách mạng tháng Tám. 

Nhưng chỉ được một thời gian ngắn rồi chúng ta lại phạm phải tả khuynh trong cải cách ruộng đất, cải tạo tư bản tư doanh và chống nhóm Nhân văn giai phẩm. 

Những sai lầm tả khuynh đó tạo ra một sự sinh hoạt chính trị mới chưa từng có trước đó, theo nghĩa xấu, đặc biệt ở khu vực nông thôn. 

Chẳng hạn, trong cải cách ruộng đất, những người cố nông, bần nông là những người không biết chữ lên nắm chính quyền làng xã. 

Và chúng ta biết xã hội vận động như thế nào khi những người không biết chữ nắm giử chính quyền. 

Vấn đề ở đây là chính quyền đứng trên lập trường của giai cấp nào chứ không phải là giai cấp nào nắm chính quyền. 

Sự đảo lộn các giá trị xã hội bắt đầu từ sự nhận thức thô thiển đó. 

Từ đó, theo thời gian, trên bình diện tư tưởng, lại xuất hiện một biến thái khác của khuynh hướng tả – duy ý chí, đề cao quá đáng yếu tố con người. 

Duy ý chí xuất hiện trong bối cảnh khi ta đang đứng trên “ đỉnh cao muôn trượng” sau thắng Mỹ, tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội và hâu quả như thế nào chúng ta đã từng nếm trải.

Khía cạnh quan trọng thứ hai là môi trường sinh ra tư tưởng tả khuynh và duy ý chí, đó là xứ Nghệ. 

Như trên đã viết, cao trào cách mạng 1930-1931 diễn ra trên 25 tỉnh thành khắp cả nước, nhưng đến xứ Nghệ nó đâm hoa kết trái bằng sự thành lập chính quyền Xô viết. 

Đó là điều chúng ta phải suy ngẫm, xem xét, trước hết là hai yếu tố: Địa và Nhân.

Nghiên cứu đặc điểm Đảng ta và tìm hiểu thành phần xuất thân của lớp đảng viên đầu tiên ở Nghệ Tĩnh như Trần Phú, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Sỹ Sách, Nguyễn Tiềm v.v… phần lớn họ là trí thức tiểu tư sản thuộc các gia đình khá giả. 

Chính họ đã tiếp thu truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Nguyễn Ái Quốc vào phong trào yêu nước. 

Phần đông trong số họ giữ cương vị chủ chốt trong các cấp bộ Đảng. 

Vì vậy chỉ thị thanh Đảng của Xứ uỷ Trung Kỳ đánh vào lực lượng nòng cốt của Đảng. “Tuy các địa phương không khai trừ đảng viên song việc chuyển vị trí và hạ tầng công tác nhất loạt hầu hết đảng viên thuộc đối tượng thanh Đảng ra khỏi các cương vị chủ chốt trong cấp ủy và thay thế bằng những đảng viên thành phần bần cố nông trình độ quá thấp. Trong tình hình địch khủng bố trắng lúc bấy giờ đã gây trở ngại và tổn thất không nhỏ.” (12)

Có thể nói chỉ thị thanh Đảng của Xứ uỷ Trung Kỳ trong thời kì cuối của Xô Viết Nghệ Tĩnh là một sai lầm lớn về công tác xây dựng Đảng. 

Chỉ thị đó bộc lộ tư tưởng cô độc, hẹp hòi nghiêm trọng và sự ấu trĩ về nguyên lý xây dựng Đảng, về nhận thức đặc điểm của Đảng ta.

Trong hoàn cảnh đó, Trung ương Đảng đã kịp thời ra chỉ thị uốn nắn phong trào. 

Chỉ thị về vấn đề thanh Đảng Trung kỳ ngày 20/5/1931 của Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Xứ uỷ Trung Kỳ, nhất là đồng chí Bí thư ra chỉ thị thanh Đảng viết rõ từng chữ: thanh trừng trí phú, địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ, như vậy thì lấy gốc đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà trốc, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ đoán và là một lối hành động quàng xiên chi tướng”. 

Các địa phương đã báo cáo về Xứ ủy có hiện tượng một số đảng viên thuộc đối tượng thanh Đảng ra đầu thú với địch, hoặc chuẩn bị ra đầu thú. Xứ uỷ Trung Kỳ phải tuyền lệnh thu hồi chỉ thị đó.

Trên thực tế ở hầu khắp các địa phương có cơ sở Đảng tại Nghệ An, không có hiện tượng khai trừ Đảng viên: “Theo điều tra của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh uỷ Nghệ An, cả Đảng bộ Thanh Chương - Đảng bộ có số lượng đảng viên đông nhất tỉnh, không có trường hợp nào khai trừ đảng viên theo chỉ thị thanh Đảng” và sáng suốt thay “đã không xảy ra một cuộc thanh trừng, sát phạt trong các Đảng bộ” (13)

Sau khi đi dự Hội nghị Trung ương Đảng trở về, đồng chí Nguyễn Phong Sắc, Bí thư Xứ ủy Trung kỳ đã triệu tập hội nghị cán bộ chủ trì để báo cáo tình hình. 

Đồng chí Nguyễn Thị Duệ đã đi dự hội nghị từ ngày 21 đến ngày 29 tháng 4 năm 1931 để tiếp thu ý kiến chỉ đạo, tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng trong giai đoạn mới.

Sau cuộc Hội nghị của Xứ ủy Trung kỳ, các đồng chí lãnh đạo chủ trì của Xứ ủy, Tỉnh ủy như Lê Mao, Nguyễn Phong Sắc, Hoàng Trần Thâm và nhiều đồng chí khác đều bị sa lưới, người bị bắt, người bị bắn lén. 

Đồng chí Lê Viết Thuật làm Bí thư Xứ ủy Trung kỳ thay đồng chí Nguyễn Phong Sắc, làm việc trong chiếc lán tại cánh đồng Trẽn. 

Đồng chí Nguyễn Thị Duệ mang bí danh là Sửu, làm Bí thư Khu ủy Bến Thủy, thường xuyên qua lại báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo của Bí thư Xứ ủy. 

Nguyễn Thị Duệ hoạt động trong điều kiện cực kỳ gian khổ, thiếu thốn và nguy hiểm. 

Bọn mật thám luôn rình mò, lùng sục quyết bắt cho bằng được các đồng chí lãnh đạo phong trào để được thăng chức và nhận thưởng. 

Ngày 7/12/1931, hai đồng chí Lê Viết Thuật và Nguyễn Thị Duệ đã bị bắt đem về giam tại nhà lao Vinh.

Lần thứ hai phải trở lại nhà lao Vinh, thực dân Pháp đã có đủ bằng chứng để buộc tội chị. 

Sau những lần Nguyễn Thị Duệ bị lôi đi hỏi cung, bị tra tấn hết sức dã man, nhưng cuối cùng chúng đều bắt lực trước tấm lòng thuỷ chung son sắt với Đảng, tinh thần kiên cường bất khuất của đồng chí. 

Ngày 8/1/1932, toà án phong kiến Nam triều tỉnh Nghệ An đã kết án Nguyễn Thị Duệ khổ sai chung thân (theo hồ sơ của Bản án số 28).

Tháng 3/1934, nhân dịp Vua Bảo Đại cưới vợ, đã có lệnh giảm án cho tù chính trị, nhiều đồng chí bị bắt trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh đã được tha, trong đó có Nguyễn Thị Duệ. 

Được ra tù, như chim sổ lồng, chị vội đi bắt liên lạc ngay với các chị Hoàng Thị Ái, Nguyễn Thị Phúc, Nguyễn Thị Nhuận, Nguyễn Thị Nhã để vận động, khôi phục lại phong trào ở các huyện Nghi Lộc, Thanh Chương, phủ Anh Sơn và thành phố Vinh.

Từ những điều sau nhiều năm suy ngẫm đã được trình bày ở trên có thể rút ra một nhận định khái quát là:  Những biểu hiện ấu trĩ tả khuynh trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh thuộc một căn bệnh thường gặp ở thời kỳ đầu của nhiều Đảng Cộng sản trên thế giới, nhưng đồng thời phản ánh một cá tính đặc thù của cư dân bản địa. 

Những người lãnh đạo ở địa phương này cần phải tính đến cái đặc sản tinh thần đó khi phát động một phong trào.

---
Ghi chú: 
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, 1930, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, trang 4.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, trang 6.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, trang 96-97 
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 3, 1931, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, trang 157
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, T2, Sđd, trang 110.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, T2, Sđd, trang  127.
(7), (8) Dẫn theo Chương trình viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước: Trần Phú - Tiểu sử, Sđd, trang 144, 161-162.
(9) Chỉ một con đường - Hồi kí của Tôn Thị Quế. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng, Tỉnh ủy Nghệ An, xuất bản năm 1972, trang 54.
(10) Dẫn theo, Lê Thị Hạnh Phúc, trong Kỷ yếu hội thảo khoa học 65 năm Xô việt Nghệ Tĩnh, Vinh, 1996, trang 304.
(11) V.I. Lênin. Toàn Tập, tập 41. Nxb Tiến bộ, M,1977, trang 69.
(13) Trích bài “Nhìn lại một số sự kiện về Xô Viết Nghệ Tĩnh trong thời kỳ chống khủng bố trắng” của Bùi Ngọc Tam, Ban sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An trong tập kỉ yếu 65 năm Xô Viết Nghệ Tĩnh, trang. 262.
(14) Bài của Bùi Ngọc Tam trong tập Kỷ yếu 65 năm Xô Viết Nghệ Tĩnh, sách đã dẫn, trang 260.

Mục lục tham khảo:

Trí thức « Nguyễn Đình Đăng's Blog

Trí thức


Nguyễn Đình Đăng

Hồi còn là sinh viên năm thứ nhất (1976 – 1977) tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Maxcơva [1], một lần ngay trong giảng đường vào giờ nghỉ, chúng tôi được yêu cầu khai lý lịch để nộp cho giáo vụ trường. Đến mục thành phần giai cấp của gia đình, tôi viết “trí thức” (интеллигенция), lại còn “trầm trọng” ghi chú “cha: thầy giáo, mẹ: bác sĩ” (отец – учителъ, мать – врач). Petya, cậu bạn Nga của tôi, thấy vậy bảo: “Ê, tiểu tư sản! Xoá đi mày! Ghi như tất cả chúng tao đây này: рабочий (lao động, công nhân).” Thấy tôi có vẻ băn khoăn, cậu ta giải thích: “Chúng tao gọi thầy giáo và bác sĩ là những người lao động trí óc (работники умственного труда).”

*

Phải nói thẳng một cách sòng phẳng như thế này. Trong lịch sử nhân loại chưa có một chế độ độc tài nào lại tôn trọng trí thức. Độc tài và trí thức không khác gì lửa và nước. Tần Thủy Hoàng từng ra lệnh đốt Kinh Thi và Kinh Thư, chôn sống hơn 460 Nho sĩ. Sa Hoàng Nikolai Đệ Nhị từng căm ghét trí thức đến nỗi muốn loại bỏ từ “trí thức” khỏi từ vựng của tiếng Nga: “Trí thức là một từ ghê tởm,” ông ta nói. Nhà độc tài kế tiếp ông, lãnh tụ cộng sản Lenin còn tiến một bước xa hơn khi đã không ngần ngại sử dụng một trong những từ thiếu sạch sẽ nhất để gán cho trí thức: Lenin gọi trí thức là cứt. Trong thư gửi Maxim Gorky ngày 15/9/1919, Lenin viết: “Các lực lượng trí tuệ của công nông đang trưởng thành vững mạnh trong cuộc đấu tranh lật đổ tư sản và bọn đồng lõa, lũ trí thức – đầy tớ của tư bản, những kẻ tưởng mình là bộ não của quốc gia. Trên thực tế, bọn chúng không phải là bộ não mà là cứt.” [2].

Khác với từ intellectuals trong tiếng Anh, thường được dùng chủ yếu để chỉ những người có nghề nghiệp chuyên môn trong các lĩnh vực lao động trí tuệ nhằm phân biệt họ với những người lao động chân tay, khái niệm trí thức (интеллигенция) trong tiếng Nga được dùng cho tầng lớp của những người không đơn thuần chỉ có học và lao động trí óc, mà còn phải có tư duy phê phán, phải gánh vác những lý tưởng cao cả. Các tính năng chính của trí thức Nga trước cách mạng tháng 10 mang đặc thù của những cứu tinh trong xã hội, bao gồm: 1) sự quan tâm tới số phận của đất nước (trách nhiệm dân sự), 2) thái độ và hành động hướng tới phê bình xã hội, tới cuộc đấu tranh với tất cả những gì cản trở sự phát triển quốc gia (vai trò của những người gánh vác lương tâm xã hội), và 3) khả năng đồng cảm với những ai “bị xúc phạm và bị xỉ nhục” (cảm giác đồng cảm về đạo đức).

Vốn có truyền thống tự chịu trách nhiệm về tương lai của đất nước như vậy, nên một số trí thức Nga đã có ảo tưởng ngây thơ rằng họ có thể hợp tác với chính thể độc tài, thuyết phục những người cầm đầu cải tổ theo chiều hướng tự do dân chủ. Họ chưa bao giờ thành công. Sau cách mạng tháng 10 Nga, các văn hào như Maxim Gorky và Vladimir Korolenko đã đích thân tới gặp Lenin với hy vọng thuyết phục ông ngừng khủng bố, nhưng họ đã thất bại.

Những người cầm đầu trong bộ máy quyền lực của chính thể cộng sản đã không bao giờ tha thứ thái độ “phản động” hay “phản cách mạng” của giới trí thức và đã nhanh chóng đàn áp họ. Thi sĩ nổi tiếng Nikolai Gumilev là nạn nhân đầu tiên. Năm 1921 ông đã bị buộc tội âm mưu chống lại chế độ Xô Viết và đã bị xử bắn. Cuộc đàn áp trí thức của chính quyền Xô Viết đã đẩy hàng loạt trí thức Nga di tản ra nước ngoài sau cách mạng tháng 10. Những đại diện xuất sắc của giới trí thức Nga thời đó, kể cả các triết gia và các văn hào lớn như Nikolai Berdyaev [3] – chủ bút tờ Vekhi (Вехи: Những cột mốc), cũng bị chính quyền trục xuất ra khỏi đất nước vào cuối năm 1922. Sự đàn áp này còn tiếp tục cho tới khi Liên Xô tan rã vào năm 1991, với nhiều văn nghệ sĩ và trí thức bị tống giam, trục xuất, đày ải, trong đó có những cá nhân kiệt xuất như nhà vật lý Lev Landau (Nobel vật lý năm 1962, bị bắt giam 1 năm trong đợt thanh trừng 1936 – 1938), nhà thơ Iosif Brodsky (Nobel văn chương năm 1987, bị trục xuất năm 1972), nhà văn Alexandr Solzhenitsyn (Nobel văn chương năm 1970, bị bắt giam 11 năm tù 1945 – 1956, bị trục xuất năm 1974), nhà vật lý Andrei Sakharov (Nobel hoà bình năm 1975, bị bắt và bị quản thúc 6 năm 1980 – 1986),  v.v.

Dưới chính thể cộng sản, Đảng cộng sản cai trị toàn xã hội, không cho phép bất cứ đảng phái đối lập nào khác tồn tại, chưa nói cạnh tranh quyền lực, và thẳng tay trừng trị mọi tư tưởng khác quan điểm do đảng áp đặt, chứ chưa nói tới hành động, mà những người cộng sản cho rằng có thể đe doạ địa vị thống trị của họ. Chỉ riêng chế độ Stalin – người kế thừa Lenin – đã hành quyết và đầy ải đến chết hơn 20 triệu người [4], gấp đôi số nạn nhân đã chết trong các lò thiêu người và trại tập trung của phát-xít Hitler. Chính thể cộng sản quả thật là chính thể độc tài tàn bạo nhất trong thế kỷ thứ 20.

*

Bài học đau xót của trí thức dưới chính thể cộng sản đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã được lặp lại tại Việt Nam. Vào năm 1956, khi một số văn nghệ sĩ, luật sư, triết gia, bác sĩ, nhà giáo tại Hà Nội như Hoàng Cầm, Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Phan Khôi, Tử Phác, Phùng Quán, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, v.v. lên tiếng đề nghị Đảng cộng sản (lúc đó lấy tên là Đảng Lao Động Việt Nam) tôn trọng tự do sáng tạo, hành xử theo luật pháp v.v., họ đã bị đàn áp thẳng tay trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và vụ Nhân Văn Giai Phẩm là những đòn trí mạng giáng vào giới trí thức Việt Nam, và kết quả là đã “đào tận gốc trốc tận rễ” tầng lớp này trên miền Bắc. Còn sau năm 1975, Việt Nam là đất nước đã sinh ra cuộc di tản khổng lồ bằng thuyền khủng khiếp nhất trong lịch sử hiện đại [5] với hơn 1.6 triệu người bỏ quê hương di tản ra ngoại quốc, trong đó có hàng ngàn trí thức miền Nam [6].

Trên thực tế, nếu hiểu giới trí thức như khái niệm интеллигенция, thì Việt Nam từ đó không còn giới trí thức nữa. Thay vào đó, cụm từ “trí thức xã hội chủ nghĩa (XHCN)” đã ra đời tại miền Bắc XHCN, và sau đó cụm từ này đã chết yểu. Nó cũng tương tự như việc thay thế chủ nghĩa hiện thực trong văn học nghệ thuật bằng “hiện thực XHCN” tại Liên Xô trước đây mà nhiều nước trong khối cộng sản đã bắt chước. “Hiện thực XHCN” đã hoàn toàn phá sản sau khi Liên Xô sụp đổ. Câu chuyện tiếu lâm dưới đây, mà tôi từng được nghe trong thời sinh viên tại Liên Xô, đã nêu rõ thực chất của thứ “hiện thực” này.

Thành Cát Tư Hãn sau khi chinh phạt thế giới, đã trở thành bá chủ một đế quốc mênh mông trải dài từ bờ biển Đông tới lưu vực sông Danube. Tuy nhiên, trong một lần chinh chiến, ông ta đã bị mất một mắt. Có lần vị hoàng đế nhà Nguyên này ban lệnh tìm hoạ sĩ giỏi để vẽ chân dung cho mình. Hoạ sĩ thứ nhất được tiến cử tới yết kiến Thành Cát Tư Hãn, và đã vẽ hoàng đế nhà Nguyên với đầy đủ cả hai mắt tinh. Sau khi bức tranh được hoàn thành và được đem trình hoàng đế xem, Thành Cát Tư Hãn khinh bỉ nói: “Sao lại có cái thứ lãng mạn chủ nghĩa đồi bại thế này?”, rồi ra lệnh chém đầu hoạ sĩ. Hoạ sĩ thứ hai được vời tới. Rút kinh nghiệm thảm khốc từ hoạ sĩ trước, hoạ sĩ này đã vẽ Thành Cát Tư Hãn giống y như thực, tức là với một mắt tinh và một mắt chột. Thành Cát Tư Hãn liếc nhình bức tranh rồi phán: “Tự nhiên chủ nghĩa tục tằn!” Hoạ sĩ thứ hai cũng bị bay đầu. Hoạ sĩ thứ ba đã vẽ chân dung Thành Cát Tư Hãn en profil (chân dung nhìn nghiêng), chỉ thấy con mắt tinh, còn con mắt chột được che khuất trong nửa không nhìn thấy của khuôn mặt. Hoàng đế nhà Nguyên xem tranh và khen: “Đây mới thực sự là hiện thực xã hội chủ nghĩa!”, rồi truyền ban thưởng cho hoạ sĩ.

Trong tác phẩm “Trí thức và vai trò của nó trong quá trình văn hoá”, Vitaly Tepikin đã tổng hợp và đề xuất 10 dấu hiệu của giới trí thức hiện đại là [7]

1 – có lý tưởng đi trước thời đại, nhạy cảm với người xung quanh, lịch sự nhũn nhặn trong biểu hiện;

2 – tích cực lao động trí óc và liên tục tự học;

3 – ái quốc dựa trên niềm tin vào nhân dân và có tình yêu quê hương sâu sắc;

4 – sáng tạo không mệt mỏi và có lối sống giản dị đến khổ hạnh;

5 – độc lập, có khát vọng đạt tới tự do biểu hiện, và tìm thấy mình trong khát vọng đó;

6 -  có quan hệ phê phán đối với chính quyền, lên án mọi biểu hiện của bất công, vô nhân đạo, phản nhân văn, phản dân chủ;

7-  trung thành với niềm tin do lương tâm mình mách bảo, ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất, kể cả phải hy sinh quyền lợi bản thân;

8 – nhận thức thực tế một cách mơ hồ, dẫn đến dao động về chính trị và đôi khi có biểu hiện bảo thủ;

9 – Có niềm oán hận lớn trước những gì không thực hiện được trên thực tế hoặc trong tưởng tượng, kết quả là đôi khi trở nên hoàn toàn khép kín tự cô lập mình;

10 – Các nhà hoạt động chuyên môn trong các lĩnh vực khác nhau, và ngay cả trong cùng một lĩnh vực, thường hiểu lầm nhau, hậu quả là đôi khi nổi cơn ích kỷ hoặc bốc đồng.

Tepikin cho rằng một cá nhân có ít nhất một nửa số dấu hiệu trên đây có thể được gọi là “trí thức theo nghĩa đại khái của từ đó”. Chuyển sang ngôn ngữ Việt Nam đương đại, có thể tạm gọi những người thoả mãn 5/10 biểu hiện nêu trên là các “trí thức dự khuyết”.

Trong giới những người (thực sự) có học vấn của Việt Nam, đại đa số chắc hội đủ ba dấu hiệu cuối (8 – 10). Những người khoa bảng mà lúc đầu từng hoạt động chuyên môn nhưng sau bỏ để ra làm quan thì khó có thể giữ được các dấu hiệu 2, 4 – 10, nếu không nói rằng hai dấu  hiệu còn lại (1 và 3) đối với những người này không phải lúc nào cũng đáng tin cậy.
*
Tương truyền, trong một lần thuyết giảng, triết gia cổ Hy Lạp Plato đã định nghĩa “con người là một động vật đi bằng hai chân và không có lông vũ.” Diogenes – một triết gia cổ Hy Lạp khác –  nghe vậy bèn bắt một con gà, vặt sạch lông, thả vào giảng đường, rồi nói: “Các người hãy nhìn kìa, đó là Con Người theo định nghĩa của Plato!” Nghe nói Plato sau đó đã phải thêm “có móng rộng và bẹt” vào định nghĩa “Con Người” của mình.

Gẩn đây có một vài ý kiến của một số “Plato Việt Nam” muốn xác định lại các tiêu chí thế nào là trí thức. Ngay lập tức họ được các “Diogenes Việt Nam” lên tiếng sửa gáy. Đội quân các “Diogenes Việt Nam” rất hùng hậu, có tới cả ngàn. Thay vì sống trong thùng tô nô, họ sống trong các blog. Họ cũng không xách đèn đi tìm người lương thiện giữa ban ngày [8], bởi dường như đã biết trước câu trả lời. Họ lại càng không có cơ hội để làm như Diogenes khi gặp Alexander Đại Đế. Theo sử gia Plutarch, khi Alexander Đại Đế tới Corinth, những người đứng đầu thành phố và các triết gia đã lũ lượt kéo nhau tới yết kiến Alexander, chỉ riêng Diogenes vắng mặt. Alexander bèn đích thân đi tìm Diogenes, và thấy ông này đang nằm dài sưởi nắng bên cái thùng ông dùng làm chỗ ngủ. Khi Alexander Đại Đế hỏi: “Hỡi nhà hiền triết, ngươi có muốn ta làm gì giúp ngươi không?”, Diogenes đã trả lời: “Ngài hãy đứng tránh sang một bên để khỏi che lấp ánh mặt trời của tôi.” Các triết gia và đám tùy tùng của Alexander Đại Đế nghe vậy cười phá lên, trong khi chính Alexander Đại Đế nói: “Nếu ta không phải là Alexander thì ta đã là Diogenes.”
Giovanni Battista Tiepolo, "Alexander Đại Đế và Diogenes", sơn dầu, 47 x 60 cm (1770). Bảo tàng Cung điện Yusupov tại Saint Petersburg.
Tới đây tôi chợt nhớ tới ca từ trong một bài hát của nhóm hip hop Dead Brez:

Bạn muốn có một chiếc Lexus hay Công Lý?
Một ước mơ hay của cải?
Một chiếc BMW, một chuỗi hạt xoàn, hay Tự Do? [9]

Ca từ này đúng hơn bao giờ hết tại Việt Nam đương đại. Rõ ràng bạn không thể vừa được người ta cấp xe sang (hay tặng nhà to) lại vừa có Tự Do (hay Công Lý). Bạn chỉ có thể chọn một trong hai thứ đó. Lập luận rằng cưỡi xe BMW mới tiến được hoặc tiến nhanh hơn tới Công Lý (hay Tự Do) là ngụy biện, tự dối mình và lừa dối người khác. Đặc biệt, nếu bạn là một người lao động trí óc theo một chuyên môn nào đó, việc bạn chọn cái gì sẽ tự động xếp bạn vào hàng ngũ những “trí thức dự khuyết”, hay vào đám học giả xu thời đang ngày càng lạm phát trên đất nước này.

Tokyo, 25/1/2012





[1] Tên đầy đủ Đại học Tổng hợp Quốc gia Maxcơva mang tên M.V. Lomonosov (Московский Государственный Университет имени М.В. Ломоносова), viết tắt là MGU (МГУ).

[2] Nguyên văn tiếng Nga: “Интеллектуальные силы рабочих и крестьян растут и крепнут в борьбе за свержение буржуазии и ее пособников, интеллигентиков, лакеев капитала, мнящих себя мозгом нации. На деле это не мозг, а говно”. Trích từ V.I. Lenin, Thư gửi A.M. Gorky ngày 15/9/1919, Toàn tập, Tái bản lần thứ 5, NXB Văn học Chính trị, 1978, tập 51, trang 48-49 (В.И. Ленин, Из письма А.М. Горькому от 15 сентября 1919 года, Полное собрание сочинений, издание пятое Изд-во политической литературы, 1978 г. т. 51, стр. 48-49) (Xem bản tiếng Anh tại đây, tiếng Việt tại đây)

[3] Nikolai Alexandrovich Berdyaev (Николaй Алексaндрович Бердяев) (1874 – 1948) – triết gia Nga; thời Sa Hoàng, do tham gia nhóm Marxist nên từng bị bắt năm 20 tuổi và bị đày biệt xứ; năm 29 tuổi do chỉ trích Nhà Thờ Chính thống Nga nên bị kết tội báng bổ và bị đày đi Siberia; dưới thời Xô Viết do không chịu chấp nhận chính thể của đảng Bolshevik áp đặt sự thống trị của nhà nước độc tài lên tự do cá nhân, nên đã bị chính quyền Xô Viết trục xuất cùng hơn 160 nhà văn và học giả danh tiếng khác sang Đức bằng tàu thủy vào tháng 9/1922 (từ một danh sách gồm 280 người bị bắt trong đó có 32 sinh viên).

Heroes & Killers of 20the Century: Joseph Stalin:http://www.moreorless.au.com/killers/stalin.html

[5] Theo báo cáo của Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, 1/3 số thuyền nhân  (boat people)  Việt Nam đã chết trên biển vì bị giết, bão, bệnh tật, đói. Thống kê của Cao ủy này cho biết chỉ riêng năm 1981 có 15095 thuyền nhân  Việt Nam đã vượt biên từ Việt Nam tới được Thái Lan trên 455 thuyền. Trong số đó có 352 thuyền (77%) bị bọn hải tặc tấn công. Số vụ tấn công là 1149 tức trung bình mỗi chiếc thuyền bị hải tặc tấn công hơn 3 lần. 571 người Việt Nam đã bị hải tặc giết. 599 phụ nữ Việt Nam đã bị hải tặc hãm hiếp. 243 người Việt Nam đã bị bắt cóc.

[6] Postwar Vietnam: Dynamics of a transforming society, Ed. Hy V. Luong, (Rowman & Littlefield Publishers Inc., 2003).

[7] Виталий Тепикин, Интеллигенция, ее роль в культурном процессе. Vitaly Tepikin là tiến sĩ lịch sử, chuyên gia về lý thuyết và lịch sử trí thức, giáo sư thuộc viện Tri thức khoa học tự nhiên Nga (Российская академия естествознания).

[8] Diogenes từng xách đèn đi ngoài phố giữa ban ngày. Khi được hỏi làm gì đấy, ông trả lời: “Tôi đi tìm một người lương thiện.” Tương truyền ông chỉ gặp toàn bọn bất lương và vô lại.

[9] Nguyên văn: You would rather have a Lexus or Justice? A dream or some substance? A Beamer, a necklace or Freedom?


Toàn văn bức thư trong đó Lenin gọi trí thức là cứt

Nguyễn Đình Đăng dịch từ nguyên văn tiếng Nga:
Полное собрание сочинений, т. 51, стр. 48-49

Lời giới thiệu của người dịch:

Trong cuộc nội chiến Nga sau cách mạng tháng 10, chính quyền bolshevik, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lenin, đã tiến hành cuộc Khủng bố Đỏ (1918 – 1923). Vào mùa thu năm 1919 hàng loạt trí thức tại Petrograd (tên của Saint Petersburg thời đó) đã bị cáo buộc âm mưu phản loạn và đã bị bắt. Nhà văn Maxim Gorki đã viết thư đề nghị Lenin ngừng khủng bố trí thức. Lenin đã viết bức thư trả lời dưới đây, trong đó ông gọi các trí thức thân Hiến Dân là cứt (Xem chú giải [1] về Đảng Hiến Dân).

Vậy những trí thức bị Lenin liệt vào loại “thân Hiến Dân” và bị Lenin gọi là cứt là những ai? Theo nhà văn Alexandr Solzhenitsyn (1918 – 2001) thì đó là 80% giới trí thức Nga. A. Solzhenitsyn từng bị giam 11 năm (1945 – 1956) trong các nhà tù và trại tập trung Xô-Viết. Được trao giải Nobel văn chương năm 1970 nhưng không thể đi nhận, ông nhận giải thưởng này năm 1974 tại Thụy Điển sau khi bị trục xuất khỏi Liên Xô vào năm đó. Ông quay trở lại tổ quốc năm 1994 sau khi Liên Xô sụp đổ.

Trong tác phẩm «Quần đảo GULAG», A. Solzhenitsyn viết: “Thân Hiến Dân có nghĩa là gì? Đó không phải là những người về phe chủ nghĩa quân chủ cũng chẳng phải những người của phe chủ nghĩa xã hội, mà đó là toàn bộ giới khoa học, đại học, văn nghệ sĩ, và tất nhiên là toàn bộ giới kỹ nghệNgoài các nhà văn cực đoan, những nhà thần học và các lý thuyết gia chủ nghĩa xã hội, toàn bộ giới trí thức còn lại, 80% của giới này, là những người thân Hiến Dân,” (Xem A. Solzhennitsyn, Quần đảo GULAG, Tập 1, trang 44, khổ thứ 3, từ dòng thứ 6).

Trong thư, Lenin lấy Korolenko làm mẫu người của trí thức tư sản. Chú giải [4] giải thích Korolenko là ai.
N.Đ.Đ.

Thư V.I. Lenin gửi A.M. Gorky
15/IX [1]

Alexei Maximưch thân mến,

Tôi đã tiếp Tonkov, và ngay cả trước khi tiếp ông ta và trước khi nhận được thư của Ông chúng tôi trong Trung Ương đã quyết định bổ nhiệm Kamenhev và Bukharin kiểm tra việc bắt các trí thức tư sản loại thân Hiến Dân [2] và để thả những ai có thể thả được. Bởi đối với chúng tôi rõ ràng là đã có những sai lầm trong việc này.

Và cũng rõ ràng rằng, việc bắt đám Hiến Dân (và thân Hiến Dân) là cần thiết và đúng đắn.

Khi tôi đọc quan điểm thẳng thắn của Ông về việc này, tôi đặc biệt nhớ lại câu nói của Ông đã in sâu vào đầu tôi trong những cuộc trò chuyện giữa chúng ta (tại London, ở Capri và sau đó):

“Giới nghệ sĩ chúng tôi là những người vô trách nhiệm.”

Chính thế đấy! Vì chuyện gì mà Ông lại nói những lời lẽ cực kỳ giận dữ như vậy? Vì chuyện vài chục (hoặc ngay cả vài trăm) ông kễnh Hiến Dân và thân Hiến Dân ngồi tù vài ngày để tránh âm mưu kiểu vụ đầu hàng Đồi Đỏ [3], những âm mưu đe dọa cái chết của hàng chục ngàn công nhân và nông dân.
Thật là thảm hoạ, cứ thử nghĩ mà xem! Thật là bất công! Cho bọn trí thức ngồi tù vài ngày hoặc thậm chí cả vài tuần đi nữa để tránh cho hàng chục ngàn công nhân và nông dân bị giết hại!

“Giới nghệ sĩ là những người vô trách nhiệm.”

Trộn lẫn “các lực lượng trí tuệ” của nhân dân với “lực lượng” trí thức tư sản là sai. Tôi lấy Korolenko [4] làm mẫu người của bọn trí thức tư sản: Gần đây tôi có đọc cuốn sách mỏng hắn viết vào tháng 8 năm 1917 nhan đề “Chiến tranh, Tổ quốc và Nhân loại.” Korolenko trên thực tế là một kẻ thân Hiến Dân nhất, gần như là một tên menshevik. Thật là một kiểu chủ chiến đê tiện, xấu xa, kinh tởm, được che đậy bằng những lời lẽ đường mật! Một con buôn bị cầm tù bởi những thành kiến tư sản. Đối với các ông kễnh này thì 10 triệu người bị giết trong cuộc chiến tranh đế quốc là việc đáng ủng hộ (bằng những việc trong các câu chữ đường mật “chống” chiến tranh), còn sự hy sinh của vài trăm ngàn người trong cuộc nội chiến chân chính chống bọn địa chủ và lũ tư bản thì lại gây nên những “ối”, “oái”, những tiếng hổn hển, và những cơn động kinh.
Không. Chẳng có gì là tội lỗi khi cho những “tài năng” như thế ngồi tù vài tuần, nếu đó là việc phải làm để tránh các âm mưu (kiểu vụ Đồi Đỏ) và cái chết của hàng chục ngàn người. Chính chúng tôi đã lật tẩy các âm mưu này của bọn Hiến Dân và thân Hiến Dân. Và chúng tôi biết bọn giáo sư thân Hiến Dân luôn luôn giúp đỡ bọn âm mưu phản loạn. Đó là sự thật.

Các lực lượng trí tuệ của công nông đang trưởng thành vững mạnh trong cuộc đấu tranh lật đổ tư sản và bọn đồng lõa, lũ trí thức – đầy tớ của tư bản, những kẻ tưởng mình là bộ não của quốc gia. Trên thực tế, bọn chúng không phải là bộ não mà là cứt.

Đối với “các lực lượng trí tuệ” mong muốn đem khoa học cho nhân dân, chứ không phải làm tôi tớ cho tư bản, chúng tôi trả tiền côngtrên mức trung bình. Đó là sự thật. Chúng tôi giữ gìn họ. Đó là sự thật. Chúng ta có hàng chục ngàn sĩ quan phục vụ Hồng quân và chiến thắng cho dù có hàng trăm tên phản bội. Đó là sự thật.

Còn về tâm trạng của Ông, “hiểu” thì tôi có hiểu (một khi Ông đã bắt đầu nói không biết liệu tôi có hiểu Ông không). Khi ở Capri và sau đó tôi đã nhiều lần nói với Ông: Ông quây quần với các phần tử xấu nhất của giới trí thức tư sản và nghe theo tiếng rên rỉ của chúng.

Ông nghe thấy và nghe theo  tiếng kêu la của vài trăm trí thức nhân vụ bắt bớ “khủng khiếp” trong vài tuần lễ, còn tiếng nói của quần chúng, của hàng triệu công nông, đang bị bọn Denikin, Kolchak, Liazonov, Rodzianko, bọn Đồi Đỏ âm mưu phản loạn, (và những tên Hiến Dân khác) đe doạ – tiếng nói đó thì Ông không nghe thấy và không nghe theo. Tôi hiểu lắm chứ, hiểu lắm chứ, rằng có thể sa đà không chỉ tới mức, kiểu như “Hồng quân cũng là kẻ thù của nhân dân chẳng khác gì bọn Bạch Vệ” (các chiến sĩ đấu tranh lật đổ bọn tư bản và địa chủ cũng là kẻ thù của nhân dân chẳng khác gì bọn địa chủ với bọn tư bản), mà còn tới mức tin vào Chúa Trời và bố già Sa Hoàng. Tôi hiểu lắm chứ.

Này, này, Ông sẽ chết đấy *) nếu không tự rứt ra khỏi bọn trí thức tư sản đó. Tôi chân thành mong Ông thoát ra mau mau.

Gửi Ông những lời chào tốt đẹp nhất!
Lenin của Ông
*) Bởi vì đúng là Ông không viết gì! Đối với một nghệ sĩ, phung phí bản thân mình cho tiếng rên rỉ của bọn trí thức thối nát và lại không viết thì thật chẳng phải là cái chết, là một sự nhục nhã hay sao?
Viết ngày 15/9/1919
Gửi đi Petrograd           
Công bố lần đầu tiên, theo bản thảo

Chú giải của người dịch:

[1] Vào năm 1919, Lenin 49 tuổi, Gorky 51 tuổi.

[2] Hiến Dân: кадет (đọc là “ka-điet”), tên viết tắt của Đảng Hiến pháp Dân chủ (Конституционно-демократическая партия), còn được gọi là Đảng Tự Do Nhân Dân (Партия Народной Свободы), thành lập năm 1905, chủ trương cải cách triệt để Nhà nước Nga thành nhà nước quân chủ lập hiến. Vào năm 1906, lúc đầu Đảng Hiến Dân chiếm đa số ghế trong Nghị viện Nga (Дума). Sau khi Sa Hoàng thoái vị sau cách mạng tháng 2/1917, Nghị viện Nga và Xô-Viết Petrograd (do Đảng Bolshevik – tức đảng cộng sản do Lenin đứng đầu – lãnh đạo) tranh giành quyền lực. Sau cách mạng tháng 10 Nga, những người bolshevik tuyên bố Đảng Hiến Pháp Dân chủ là “kẻ thù của nhân dân”, Lenin đã ra lệnh bắt và thủ tiêu các lãnh tụ Đảng Hiến Dân.

[3] Ngày 13/6/1919, khi cánh quân Bạch Vệ phía bắc của tướng A.P. Rodzyanko tấn công Petrograd, đội quân bảo vệ pháo đài Đồi Đỏ (Красная Горка) đã nổi dậy chống lại những người bolshevik. Nhưng 3 ngày sau, cuộc nổi dậy đã bị những người bolshevik dập tắt. Quân Bạch Vệ không kịp ứng cứu vì khi được tin về cuộc nổi dậy thì đã quá muộn.
Chân dung V.G. Korolenlo do Ilya Repin vẽ năm 1912
[4] Vladimir Galaktionovich Korolenko (Влaдимир Галактионович Короленко) (1853-1921) – nhà văn, nhà báo, nhà tranh đấu cho nhân quyền, người theo chủ nghĩa nhân đạo. Ông là người phê phán mạnh mẽ chế độ Sa Hoàng và chế độ bolshevik (cộng sản). Ông sinh tại Zhitomir, Ukraina, là con của một quan tòa địa phương. Do tham gia phong trào Dân Tuý, ông bị đuổi học khỏi cả hai trường đại học công nghệ Saint Petersburg (1871) và viện nông lâm Petrov tại Moscow (1874). Năm 1876 ông bị bắt đi đày tại Kronstadt. Ông còn bị chế độ Sa Hoàng đày ải thêm 2 lần nữa (1879, 1881 – 1884). Ông nổi tiếng về các truyện ngắn viết trong những năm 1879, 1885, 1892 – 1900. Từng là viện sĩ viện Hàn Lâm Văn học Nga, nhưng ông đã ly khai năm 1902 sau khi Maxim Gorky bị khai trừ khỏi viện Hàn Lâm vì tham gia cách mạng. Nhà văn Anton Chekhov cũng ly khai vì lý do này. Korolenko lúc đầu hoan nghênh cách mạng tháng 10 Nga năm 1917, nhưng chẳng bao lâu sau khi những người bolshevik lộ rõ bản chất chuyên quyền bạo ngược, Korolenko đã lên tiếng chống lại họ. Trong cuộc nội chiến ông đã phê phán cả Khủng bố Đỏ (do chính quyền bolshevik tiến hành) và Khủng bố Trắng (của phe Bạch Vệ). Ông cổ vũ cho nhân quyền và chống lại những bất công và khủng bố của đấu tranh giai cấp. Ông mất tại Ukraina ngày 25/12/1921.